Hồng Đức

Lưu bút

Ngô Đình Diệm và chính nghĩa dân tộc (phần 5 đến hết)

Quyển 2


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Ngô Đình Diệm và chính nghĩa dân tộc

tác giả: Minh Võ Vũ Đức Minh

 

trình bày: Hồng Đức 

 

 

 

Do Hồng Đức xuất bản lần đầu

tại California – Hoa Kỳ, 11-2008

 

Nguyệt San Diễn Đàn Giáo Dân tái bản lần thứ nhất

Tại California – Hoa Kỳ, 01-2009

 

 

 

 

tác giả giữ bản quyền 


MINH VÕ

 

 

 

NGÔ ĐÌNH DIỆM 

 

CHÍNH NGHĨA

DÂN TỘC 

 

 

 

 

 

 

 

Nguyệt San DIỄN ĐÀN GIÁO DÂN

2009


 

 

 

 

 

 

Phần III

 

 

5

Từ vinh quang đến tử nạn[1]

 

 

 

T

ừ 26 tháng 10 đến mồng 2 tháng 11, chỉ có một tuần thôi.[2] Nhưng là tuần lễ định mệnh đưa một nhân vật lịch sử từ Vinh Quang đến Tử Nạn. Đối với một số người thì tên tuổi, sự nghiệp của cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã lên đến tột đỉnh vào một ngày 26 tháng 10, nhưng rồi đã tiêu tan vào một ngày 2 tháng 11. Nhưng với vô vàn người khác cái chết của ông đã làm ông sống mãi với lịch sử nước nhà, sống mãi trong lòng nhân dân khát vọng hòa bình, tự do. Có thể nói cuộc tử nạn của ông đã đưa ông tới đài Vinh Quang bất diệt.

            Những ai không có thành kiến hay mặc cảm, và có công tâm để nhìn vào thực tế và so sánh một cách khách quan, những ai còn tha thiết với chủ quyền quốc gia, những ai biết thế nào là tự trọng, thế nào là tiết tháo, những ai đã chứng kiến và không quên sự thanh bình phồn thịnh của miền Nam[3] trong thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm cầm quyền, so với sự đói khổ, áp bức mà nhân dân miền Bắc thời ấy phải chịu dưới ách CS, hay so với một miền Nam ngụp lặn trong rối loạn, chia rẽ, và chiến tranh sau khi ông mất sẽ mãi mãi nhớ ơn và tiếc thương ông.

            Cái vinh quang, theo ông, không phải là chức vị tổng thống, dù là tổng thống đầu tiên của Việt Nam. Công trạng của ông không phải chỉ ở chỗ dẹp xong loạn thập nhị sứ quân, đưa quốc gia và quân đội về một mối. Khải hoàn của ông không phải ở chỗ được các yếu nhân Mỹ ca ngợi là anh hùng, là con người thần kỳ, là Churchill của thập kỷ tại Á Châu, là vĩ nhân của thế kỷ 20.[4] Vinh quang của ông không phải vì được tổng thống đệ nhất siêu cường đích thân ra đón tận phi trường, rồi đọc diễn văn trước lưỡng viện quốc hội, được báo chí Mỹ ca ngợi hết lời, và nhân dân Mỹ hoan hô dọc bên đường phố Nữu Ước, khi ông đứng trên xe mui trần vẫy tay chào họ.

            Đối với con người đạo dức, dũng cảm, cương trực, thương dân yêu nước như ông, chỉ có hạnh phúc của nhân dân làm ông vui và lấy làm tự hào. Cái hào quang rực rỡ ấy vẫn còn chói sáng. Nhưng, than ôi! Hạnh phúc của nhân dân thì không còn, kể từ ngày ông mất.

            Ông đã không đáp lời mời gọi khẩn thiết của cựu hoàng Bảo Đại ra cứu nước, trong lúc hy vọng cứu nước mong manh như sợi chỉ mành trước gió, nếu ông không có một tấm lòng rộng mở hướng về hạnh phúc của nhân dân, nếu ông không vì lợi ích quốc gia, dân tộc, dũng cảm gạt sang một bên niềm ước ao từ bao năm, là được dâng trọn cuộc đời cho Chúa trong một tu viện nào đó.

            Nhận lời mời của Bảo Đại, xông vào chốn hiểm nguy, tuyệt vọng, ông tự coi mình lãnh nhận sứ mạng của Trời đem cuộc đời hiến cho tổ quốc.

            Hiểm nguy, vì lúc ấy, ngoài vị vua đã mất ngôi, và một số ít ỏi đồng chí, xung quanh ông toàn những người chống đối. Họ không muốn ông thành công. Họ cầu ông thất bại để sau khi ông đã liều chết dọn đường, làm cỗ sẵn, họ sẽ đưa người của họ ra thay thế ông. Họ là người Pháp mà đại diện lúc ấy tại Việt Nam là tướng Paul Ely, người ghét cay ghét đắng Ngô Đình Diệm. Họ là người Mỹ mà đại diện lúc ấy là tướng J. Lawton Collins, bạn thân và đại diện của cá nhân Tổng Thống Eisenhower, không ngừng đưa kiến nghị, hàng chục lần, yêu cầu chính quyền Eisenhower phải bằng mọi cách thay thế ông.[5] Họ là những kẻ thực dân ngoan cố, chỉ muốn Ngô Đình Diệm thất bại và miền Nam Việt Nam nát bấy để uy tín, quyền lợi thực dân còn chút hy vọng tồn tại. Họ là những tay sai của thực dân chỉ muốn ăn sống nuốt tươi con người yêu nước, thanh liêm, cương trực lúc nào cũng đe dọa túi tiền, bổng lộc, chức tước của họ.

            Tất cả những loại người đó đã cấu kết với nhau, khuyến khích nhau để tấn công ông từ nhiều phía hầu làm cho ông phải nản chí, ngã lòng.

            Tình hình nước nhà lúc ấy đã tuyệt vọng, vì liền sau khi về nước, trong chuyến kinh lý đầu tiên thăm miền Bắc, vị thủ tướng tân cử đã thấy tất cả không còn gì. Mọi người chỉ muốn mau chóng rời bỏ phần đất thân yêu ngàn năm văn vật này. Không còn ai muốn cùng với Ngô Đình Diệm chiến đấu để cứu vãn tình thế. Tuyệt vọng vì chỉ hai tuần sau, sự chia đôi đất nước đã thành hiện thực vô phương đảo ngược. Tuyệt vọng vì ngân khố trống rỗng, quân đội nằm trong tay một tướng lãnh có quốc tịch Pháp,[6] sẵn sàng vì quyền lợi mẫu quốc, theo lệnh người Pháp bất tuân lệnh, uy hiếp vị thủ tướng Việt Nam chân ướt chân ráo, vừa về nước.

            Nhưng trong tuyệt vọng ông đã đem lại niềm hy vọng. Từ chỗ hiểm nguy, tứ bề thọ địch, ông đã thoát ra an toàn và gieo vào lòng nhân dân niềm tin.

            Ông đã thắng tất cả. Collins, bạn thân và đặc sứ của Tổng Thống Eisenhower đã bị triệu hồi về Mỹ. Ely đã cùng với đoàn quân viễn chinh đứng chào hai lá quốc kỳ Việt Pháp trước khi hạ quốc kỳ Pháp cuốn rút về nước cùng với tướng tá và đoàn quân bại trận.[7] Và sự việc đó diễn ra trước sự hiện diện của một Ngô Đình Diệm mà thực dân Pháp căm ghét, nhưng từ nay bó buộc phải nể vì.

            Những Bảy (Lê Văn) Viễn, Lai Văn Sang, Nguyễn Văn Hinh, Nguyễn Văn Vỹ… tay sai của thực dân, tất cả đều bị loại.

            Và cuối cùng chính cựu hoàng Bảo Đại cũng bị truất phế, mặc dù sự việc xảy ra ngoài ý muốn của Ngô Đình Diệm. Ý dân là ý Trời. Sau này cựu hoàng đã chẳng hề oán trách ông, mà còn bảo đó chỉ là do sức ép của thời cuộc.[8]

            Thế mà ngày nay còn nhiều kẻ trách cứ, lên án Ngô Đình Diệm phản bội, không giữ lời thề trung thành với Quốc Trưởng, trong khi chính Quốc Trưởng xác nhận trong hồi ký rằng ông chỉ yêu cầu ông Diệm thề trước tượng Chúa là sẽ bảo vệ tổ quốc chống Cộng sản và nếu cần chống cả Pháp.[9]

            Nỗi oan này cũng tương tự như lời đồn đại đầy ác ý rằng ông giết cố Trung Tướng Trình Minh Thế, một người bạn, người đồng chí cùng lý tưởng chống cộng đồng thời chống thực dân của ông, người mà chính bào đệ của ông đã phải đến tận núi Bà Đen để thuyết phục chiêu dụ, người mà lúc ấy ông rất cần đến sự trung thành và lòng dũng cảm trước sức tấn công của kẻ thù, người mà khi được tin tử nạn, ông đã khóc đến ngất xỉu.[10]

            Cũng giống như nỗi oan đàn áp, “bách hại Phật Giáo”. Người ta đã quên rằng trong 9 năm thời đệ nhất Cộng Hòa số chùa chiền miền Nam đã tăng gấp đôi. Có nơi thờ Phật đã được xây cất do tiền chu cấp của chính phủ.[11] Toàn bộ món tiền thưởng giải Magsaysay ông đem tặng hết cho Đức Đạt Lai Lạt Ma.[12] Toàn bộ tham mưu phủ Tổng Thống từ đổng lý, phó đổng lý, chánh văn phòng, chánh võ phòng, bí thư, thư ký, tổng thư ký đều là Phật tử ngoan đạo.[13] Đó là chưa kể phó tổng thống, đại tướng tổng tham mưu trưởng và nhiều bộ trưởng đều là những Phật tử. Thế mà người ta nhất định bảo ông kỳ thị Phật Giáo, chỉ dùng người nhà và dân Công Giáo!

            Người ta đã thổi phồng một lỗi lầm nhỏ bé về hành chánh[14] để kết tội ông bách hại Phật Giáo, tàn sát Phật tử, và gây nên những cái chết của một số nhà sư tự thiêu, mặc dù sát sinh là tội nặng theo giới răn của Đức Phật.

            Người ta cũng kết tội ông mưu toan hiệp thương với miền Bắc, bán đứng miền Nam cho Cộng Sản. Quả thực ông đã để cố vấn Ngô Đình Nhu tiếp xúc với Hà Nội[15] để tìm một giải pháp chính trị cho cuộc nội chiến càng ngày càng gay go, đang có nguy cơ quốc tế hóa để trở thành đại chiến. Lúc ấy ông đang ở thế thượng phong. Khác hẳn cái thế yếu kém của chính quyền đệ nhị Cộng Hòa sau này, lúc mà ngay cả đồng minh Hoa Kỳ cũng bị Việt Cộng o ép, làm khó dễ trăm chiều tại bàn hòa đàm.

            Về mặt ngoại giao, 81 nước có đại diện ở Sài Gòn. Về mặt an ninh ông đã phá hủy hầu hết các cơ sở hạ tầng của CS đề lại miền Nam, như Nguyễn Văn Linh, tổng bí thư Cộng đảng đã thú nhận, và sau này Văn Tiến Dũng còn xác nhận bằng con số cụ thể là tổn thất của CS lên đến 90 phần trăm.[16] Nhiều nhà báo Mỹ chỉ trích ông hạ mật lệnh cho các tướng tá sư đoàn 7 không được mở những trận đánh lớn hòng tiêu diệt Cộng quân.[17] Một số giáo sư Việt trực diện chất vấn ông, sao không mở một trận đánh lớn để dứt điểm mà cứ đánh cầm chừng?[18] Ông đáp, vì không muốn chiến tranh lan rộng khiến các cường quốc hai phe đối địch nhảy vào, chỉ thiệt cho nhân dân mình. Câu trả lời của ông cho thấy một nhãn quan chính trị sâu sắc, mà thực tế đã chứng tỏ đó là một lời tiên tri.

            Cành đào có đính danh thiếp của chủ tịch Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Hồ Chí Minh chúc Tết tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm, từ Hà Nội gửi tới qua một thành viên thuộc Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến (CIC), được trưng bày tại phòng khánh tiết phủ Tổng Thống vào dịp xuân Quý Mão (1963) mãi gần đây mới được người có thẩm quyền xác nhận. Nhưng lúc ấy đã là nguyên nhân những tin đồn bất lợi.[19]

            Khi muốn triệt hạ một đồng minh ương ngạnh không chịu để quân Mỹ vào tốc chiến tốc thắng (theo một chiến lược riêng), lại còn có kế hoạch yêu cầu Mỹ rút dần cố vấn về nước, thì người ta sẽ tìm ra không thiếu bằng cớ. Nào độc tài gia đình trị, nào đàn áp Phật Giáo, nào bán đứng miền Nam cho Cộng Sản…

            Một vài giới chức cao cấp trong bộ ngoại giao Mỹ từ thứ trưởng trở xuống[20] đã năng động hăng hái dùng những mánh lới lươn lẹo đánh lừa cấp trên hòng có được sự chấp thuận bức điện văn bật đèn xanh cho một số tướng lãnh Việt Nam, vì quyền lợi phe phái hay cá nhân làm cuộc đảo chính. Tổng Thống đã muốn tránh đổ máu nên sẵn sàng đến gặp các tướng đảo chính để nếu cần thì được an toàn rút lui. Nhưng họ đã hạ độc thủ, cho thủ hạ giết ông, rồi phao vu là ông tự sát. Chính Tổng Thống Kennedy đã sửng sốt, giận dữ, và mất bình tĩnh khi nghe tin này. Nhưng đã quá muộn.

            Tổng Thống đã chết đi để cho hàng nghìn, hàng vạn người khỏi chết, nhất là những quân sĩ trung thành với ông và thường dân vô tội chết vì bom rơi đạn lạc. Ông đã không chấp thuận đề nghị của tham mưu trưởng Lữ Đoàn Liên Binh phòng vệ phủ Tổng Thống đưa thiết giáp lên tấn công bộ chỉ huy cuộc đảo chính.[21]

            Nhưng hậu quả của cái chết của Tổng Thống không thể lường được. Tình hình miền Nam rối loạn trong hai năm. Gần chục chính phủ[22] đã thay nhau cầm quyền mà không giải quyết được vấn đề an ninh, và các mâu thuẫn phe phái tranh giành quyền lực. Cuối cùng Mỹ đã phải (hay đã có dịp thực hiện ý đồ từ trước?) đem đại quân vào mà không có một hiệp ước song phương.[23] Điều này đã làm cớ cho Bắc Việt tuyên truyền rằng Mỹ xâm lăng, và kêu gọi toàn dân kháng chiến chống Mỹ. Hàng loạt trí thức miền Nam ra bưng đi theo Việt Cộng.[24] Bộ đội CS thề quyết vào Nam đánh Mỹ.

            Cuộc chiến đã xoay sang thế hoàn toàn bất lợi cho miền Nam. Cuộc chiến gần một thập kỷ với cường độ khủng khiếp đã giết hại hơn 3 triệu người. Và miền Nam đã mất vào tay CS. Thêm nửa triệu người nữa chết trong các tù cải tạo và trên đường vượt biển, vượt biên đi tìm tự do, chạy trốn nạn CS.

            Đã 45 năm qua, những người còn biết thế nào là ơn nghĩa đã không nguôi lòng tiếc thương một vị tổng thống đã có công giữ được một nửa nước khỏi rơi vào tay CS hồi 1954, có công tiếp đón, định cư gần một triệu đồng bào chạy trốn CS miền Bắc, trong đó không chỉ có gần 800 ngàn giáo dân, mà còn không biết bao nhiêu Phật tử, văn nghệ sĩ, trí thức, quân cán chính của chính quyền Quốc Gia cũ thoát nạn CS, để có được đời sống ổn định, tự do thờ Chúa, cúng Phật, tự do sáng tác, tự do hành xử quyền công dân, và làm ăn phát đạt.

            Một lời chót với dân di cư hồi 1954, chúng tôi tin rằng tất cả những người từng di cư từ miền Bắc, hay con cháu họ không bao giờ quên ơn Ngô Đình Diệm, cho dù ông có lỗi lầm gì đi chăng nữa. Nhân vô thập toàn. Thánh nhân còn phạm tội. Có nhà lãnh đạo quốc gia nào dám tự phụ mình không sai phạm? Những người di cư đó, nhất là giới trí thức, là những chứng nhân sẽ lãnh trách nhiệm nói lên sự thật về con người yêu nước Ngô Đình Diệm. Dân di cư hồi 1954, cũng như dân tỵ nạn tại Mỹ sau 30 tháng tư năm 1975 dĩ nhiên cũng phải nhớ ơn chính phủ Hoa Kỳ đã tận tình giúp đỡ mình hay cha ông mình trong những thời điểm ấy.

 


6

Cái chết của
Tổng Thống Ngô Đình Diệm
và vấn đề chính nghĩa dân tộc

 

 

 

Í

t ai để ý rằng có hai sự việc quan trọng chứng tỏ Tổng Thống Diệm coi chính nghĩa quốc gia, chính nghĩa dân tộc là điều kiện tiên quyết để chiến thắng.

            Thứ nhất, ông đã nhiều lần liên tiếp từ khước lời mời ra chấp chánh của cựu hoàng Bảo Đại vì thấy thực dân Pháp chưa thực tâm trao trả hoàn toàn độc lập cho VN. Và ông đã nhận ra chấp chánh khi người Pháp đã trao trả độc lập hoàn toàn cho Việt Nam bằng hiệp ước ký kết với Thủ Tướng Bửu Lộc ngày 4-6-1954. Rồi từ khi chấp chánh (song thất 7-7-54) cho đến khi được bầu làm tổng thống đầu tiên của Việt Nam, ông đã kiên trì tranh đấu qua bao nhiêu gian khổ trước âm mưu đen tối của thực dân muốn duy trì một chế độ thối nát ở miền Nam hòng tiếp tục ở lại phần đất béo bở này, bất chấp hiệp ước 4-6, cũng như hiệp định Genève 20-7-54. Và kết quả cụ thể là lá cờ Pháp gần một thế kỷ tung bay trước dinh Norodom được hạ xuống để lá quốc kỳ Việt Nam (cờ vàng ba sọc đỏ) được long trọng kéo lên trước sự hiện diện của Tổng Thống Diệm chứng kiến sự thành công, và trước mặt tướng Paul Ely đại diện Pháp quốc chứng kiến sự thất bại. Và cũng từ đó dinh Norodom ấy đã được mệnh danh là dinh Độc Lập để đánh dấu ngày mà nhân dân VN dưới quyền lãnh đạo của Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã dành được Độc Lập hoàn toàn trên thực tế, chứ không phải chỉ trên giấy tờ theo như những hiệp ước trước. Sau đó là cuộc rút toàn bộ quân Pháp hãy còn lưu lại Việt Nam sau hiệp định Genève.

            Mưu toan của người Pháp dùng các tướng Nguyễn Văn Hinh, Nguyễn Văn Vỹ để duy trì sự cai trị của Quốc Trưởng Bảo Đại như một bù nhìn của Pháp, hòng đưa đến sự trở lại khó tránh của chính quyền thực dân đã bị Tổng Thống Diệm đập tan nhờ sự cương quyết dũng cảm của ông và nhờ sự nhận thức khôn ngoan của các đoàn thể tổ chức, đảng phái lúc ấy tự động đứng đàng sau ông.

            Tranh đấu thực sự để dành độc lập, ngăn chặn âm mưu trở lại của thực dân lúc ấy là chính nghĩa sáng ngời. Nên ông đã thành công. Thực dân Pháp lúc ấy vô cùng căm ghét ông, nhưng không làm sao triệt hạ được ông, vì ông được nhân dân ủng hộ. Sau sự thành công đó ông đã được toàn dân bầu lên làm tổng thống đầu tiên của một nước Việt Nam mới với quốc hiệu Cộng Hòa Việt Nam được trên 80 quốc gia công nhận.

            Thứ hai, sự thành công của ông cũng làm cho một số người Việt Nam nhỏ nhen đố kỵ ghen ghét và chính quyền Mỹ thấy ông trở thành nguy hiểm đối vói đường lối chính sách đương thời. Đặc biệt là đối với một vài nhân vật trong bộ ngoại giao Mỹ. Vì vậy, vào những năm cuối cùng của Đệ Nhất Cộng Hòa, ông đã gặp nhiều khó khăn rắc rối với ngay chính quyền Mỹ.

            Vào thời chính quyền Kennedy một số người Mỹ đã muốn tốc chiến tốc thắng Việt Cộng. Họ muốn đưa quân tác chiến vào Việt Nam và bị Tổng Thống Diệm cương quyết bác bỏ. Không phải ông không biết nước nhà còn yếu cần sự viện trợ dồi dào của Hoa Kỳ cả về mặt quân sự. Nhưng ông thấy lúc ấy miền Nam VN chưa cần tới quân viện ồ ạt của Hoa Kỳ, mà chỉ cần một số cố vấn và huấn luyện viên, và vào hai năm cuối, cần sự yểm trợ của một số trực thăng. Còn việc chấp nhận cho quân tác chiến của Mỹ tham gia các trận đánh, thì ông đã nói với những đại diện của Hoa Kỳ như đại sứ Nolting và tướng Taylor, nếu đến một lúc nào đó, chiến trận gay go, cần tới quân tác chiến của Hoa Kỳ, thì ông sẽ sẵn sàng ký một hiệp ước song phương, cho cuộc viện trợ này có danh chính ngôn thuận để ông có thể trả lời với quốc dân VN. Và hiệp ước đó cũng sẽ chỉ cho quân Mỹ đóng ở dọc biên giới (vĩ tuyến 17) mà thôi. Đại Sứ Frederick Nolting, người đã thương lượng với Tổng Thống về việc đem quân tác chiến vào để đẩy mạnh cuộc chiến sớm thành công đã phải công nhận lập trường của Tổng Thống Diệm là hữu lý, mặc dù ông cũng than phiền là ông Diệm là người rất khó thương thuyết (về vấn đề này).

            Sở dĩ Tổng Thống Diệm quyết liệt như thế vì chủ quyền quốc gia là một vấn đề nguyên tắc bất di bất dịch. Ngoài ra còn về mặt chiến lược nữa. Ông biết rõ lúc ấy Hồ Chí Minh là người vô cùng xảo quyệt đang được dư luận thế giới và số đông trí thức trong nước cũng như nhân dân ủng hộ. Vì họ được CS thế giới tuyên truyền rằng ông Hồ mới thực sự là người yêu nước, còn ông Diệm chỉ là tay sai hay bù nhìn của Mỹ. Nếu để cho dân chúng và thế giới thấy quân đội Hoa Kỳ chủ động trong cuộc chiến, thì quân đội VNCH dưới quyền lãnh đạo của tổng thống là tổng tư lệnh theo hiến Pháp sẽ trở thành lính đánh thuê. Nghĩa là mất hẳn chính nghĩa dân tộc.

            Chính sự quyết tâm không nhượng bộ trong những vấn đề nguyên tắc và chiến lược đó, đã làm phật ý một số nhà lãnh đạo Mỹ, khiến họ tìm mọi cách, dàn dựng nên hay phóng đại những lỗi lầm của ông hầu lấy cớ triệt hạ ông.

            Trước hết, như chính Roger Hilsman, phụ tá ngoại trưởng Mỹ lúc ấy đã viết, và sau này nhiều sử gia Mỹ, trong số đó có hai nữ sử gia là Marilyn B. Young và Ellen Hammer đã nhắc lại để dẫn chứng, ông Ngô Đình Nhu lúc ấy là cố vấn chính trị phủ Tổng Thống chủ trương “nếu ít thì cũng phải rút một số cố vấn Mỹ về nước, còn nếu nhiều thì yêu cầu Mỹ rút hết cố vấn”. Nói chi đến việc đem thêm quân Mỹ vào VN? Vì thế những nhà ngoại giao Mỹ lúc ấy như thứ trưởng ngoại giao Averell Harriman, phụ tá ngoại trưởng Roger Hilsman… đề nghị với cấp trên đòi Tổng Thống Diệm phải đưa ông Ngô Đình Nhu ra ngoại quốc. Sự việc vừa nêu cho thấy họ sợ rằng với ông Nhu bên cạnh, Tổng Thống sẽ không bao giờ cho Mỹ đổ quân tác chiến vào. Họ không biết rằng đối với một nhà lãnh đạo có bản lãnh và lập trường kiên định như Tổng Thống Diệm, ông Nhu hay ai khác ở bên cạnh cũng chỉ là để thực hiện những sáng kiến chiến lược của ông mà thôi. Và đời nào ông chịu áp lực của ngoại bang mà loại bỏ người em trung thành và hiểu rõ đường lối chính sách của ông hơn ai hết.

            Khi mà trong chiến lược toàn cầu, Mỹ thấy cần đem quân tác chiến vào, lại bị một nước nhỏ bé đang cần viện trợ của Mỹ dám bác bỏ và chống đối, thì chuyện gì sẽ xảy ra? Người ta dễ tiên liệu được. Vì vậy mà cho đến nay, một số người vốn ca tụng Tổng Thống Diệm, và nghĩ ông thực sự là nhà ái quốc cũng phê bình ông thiếu khôn ngoan, khi không đồng ý để Mỹ đem quân vào “giúp”.

            Nhưng đối với Tổng Thống Diệm hai vấn đề nguyên tắc và chiến lược tối cao là quan trọng hơn cả. Thà phải hy sinh tính mệnh, chứ không thể vì sự sống của mình mà hy sinh chủ quyền quốc gia. Còn chết là chuyện ai cũng phải có lúc chết. Anh hùng có ai sợ chết?

            Thực tế lịch sử những năm sau đó đã chứng minh, dù Mỹ đem đại quân vào, và dùng đủ mọi thứ vũ khí tối tân vẫn không thắng được VC. Nguyên nhân chính mà ngày nay ai hiểu về chính trị và nhất là về hình thức chiến tranh ý thức hệ của CS đều phải công nhận. Đó là, sở dĩ Mỹ thua và phải rút quân, để cho miền Nam rơi vào tay CS, để rồi bị nhiều người dân miền Nam oán trách cho đến bây giờ, chính vì họ đã tự ý đem quân tác chiến vào, Mỹ hóa cuộc chiến, khiến cuộc chiến chống cộng (có chính nghĩa) trở thành cuộc chiến chống Việt Nam (phi nghĩa), chẳng khác gì chiến tranh xâm lược như VC thường rêu rao.

            Thật đáng tiếc và hết sức buồn, phải nhắc lại rằng, ngoài những kẻ chủ mưu và tham gia đảo chính, những người có trách nhiệm trực tiếp trong việc để Mỹ tự do đem quân vào mà không có một hiệp ước song phương quy định những chi tiết thực hiện lúc ấy chính là Thủ Tướng bác sĩ Phan Huy Quát và bộ tham mưu của ông. Trong cuốn hồi ký In The Jaws of history[25] cựu đại sứ Bùi Diễm đã xác nhận sự kiện trên. Nhưng ông tự biện minh là “người Mỹ đã không hỏi ý” các ông trước.[26]

            Tất cả những gì xảy ra sau khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị lật đổ rồi bị giết một cách man rợ, hèn nhát đã cho thấy những người chống đối ông, đòi ông chia xẻ quyền hành một cách quá đáng đều đã có cơ hội thử thời vận, nhưng tất cả đều thất bại. Ngay chính phủ họ Phan cũng chỉ tồn tại được hơn ba tháng. Điều này đã làm cớ cho người ta suy luận rằng, người Mỹ chỉ cố đem được con bài của mình lên để thực hiện ý định đổ quân tác chiến ồ ạt vào VN. Sau khi đã làm xong bổn phận của mình, chính phủ đó liền bị thay thế.

            Chính quyền Nguyễn Văn Thiệu sau này, được sự tham gia của nhiều trí thức thuộc các đảng từng chống Tổng Thống Diệm đã mặc nhiên trở thành một thứ tay sai của Mỹ. Chính vì có sự hiện diện của nửa triệu quân Mỹ nắm trọn quyền điều khiển chiến tranh. Trong tình trạng ấy, người dân khó có thể không nghĩ mọi việc Tổng Thống làm đều do Mỹ bảo phải làm. Kể cả việc triệt thoái quân khỏi vùng II chiến thuật vào những tháng cuối, và việc trao quyền lại cho một thầy giáo cô đơn về chính trị, cô đơn đến nỗi một mình “xách giỏ đi chợ chiều, tôm cá tươi đã hết đành phải hót mấy con cá ươn về làm cỗ”, để rồi “thầy giáo cô đơn” phải trao quyền lại cho ông hàng tướng có em VC gộc, để rồi tướng này trao trọn miền Nam cho VC.

            Với hàng chục vạn quân Mỹ tự tung tự tác, chủ động mọi kế hoạch tác chiến trên tổ quốc VN lúc ấy, trước mắt các quan sát viên quốc tế, Tổng Thống, Phó Tổng Thống, Thủ Tướng chẳng qua cũng chỉ là tay sai đắc lực hay bất đắc dĩ của ngoại bang. Và trong chính thể đó, những vị trí thức, những nghị sĩ tên tuổi, những vị tổng bộ trưởng, đại sứ, tướng lãnh VN không hề biết rằng mình đã trở thành một thứ lính đánh thuê cho một ngoại bang, nếu họ không chứng minh được với thế giới và dư luận trong nước (bên kia bờ Bến Hải) rằng họ đang cùng Hoa Kỳ chống Hồ Chí Minh và đồng bọn tay sai của Quốc Tế III, tức Quốc Tế Cộng Sản. Tiếc rằng từ khi ông Diệm bị giết, những nỗ lực về mặt này chẳng còn có gì đáng kể. Vì thế mà với trên nửa triệu lính Mỹ thường trực tại VN với vũ khí tối tân đủ loại, miền Nam đã mất vào tay CS!

            Dù chính quyền Ngô Đình Diệm có lỗi lầm gì đi chăng nữa (mà chính quyền nào lại không có lỗi lầm? Hãy nghe hai phe đối đầu trong các cuộc tranh cử tại Mỹ là một nước dân chủ hàng đầu trên thế giới chỉ trích lẫn nhau thì thấy rõ điều đó), thì chúng ta cũng phải công nhận rằng chính quyền đó đã tìm mọi cách để nêu cao chính nghĩa dân tộc chống cộng sản. Hầu hết thảy các chuyên viên chống cộng trên thế giới đều được Đệ Nhất Cộng Hòa tiếp xúc và/hoặc mời tới Sài Gòn để tham khảo, thuyết trình, giới thiệu các phương cách chống cộng hữu hiệu nhất của họ. Nào phái đoàn NTS của tổ chức chống cộng Nga, phái đoàn Vương Thăng của Trung Hoa Quốc Dân Đảng, phái đoàn Sir Thompson của Anh, phái đoàn của nữ sĩ Suzane Labin, tướng Vanuxem… của Pháp và hàng tá chuyên viên chống cộng sản Huc của Phi. Lúc ấy những lãnh tụ chống cộng hàng đầu trên thế giới như Raymon Magsaysay của Phi, Lý Thừa Vãn của Đại Hàn, Tưởng Giới Thạch của Trung Hoa Dân Quốc đều trở thành bạn thân và chí hữu của Tổng Thống Diệm…

 

Hình 1: Công chức miền Nam nghe thuyết trình về cộng sản quốc tế.

            Xin đừng bảo sau này anh em ông Diệm đã bắt tay với VC, nên đã bị trừng trị vì tội phản bội. Bởi vì bàn chuyện hiệp thương, tạm ngưng xung đột trong một cuộc chiến lâu dài là một kế sách mà các chiến tướng từ cổ chí kim đã từng làm. Việc đó không tất nhiên là chuyện phản bội. Nếu bảo thương lượng với người cùng một tổ quốc, dù có là kẻ thù, để làm giảm áp lực của ngoại bang muốn xâm phạm chủ quyền tối thượng của quốc gia là trọng tội, thì sau này chính quyền Nguyễn Văn Thiệu muốn ngồi ngang hàng với Hà Nội để bàn chuyện ngưng chiến mà không được thì sao? Khi tính chuyện hiệp thương ông Diệm đã phân biệt con người Việt Nam trong đám lãnh đạo miền Bắc với con người CS, và tạm thời đặt những tranh chấp về ý thức hệ vào một tương lai. Chứ ai cũng biết bản chất của ông không phải là người chấp nhận chủ nghĩa cộng sản vô thần. Hơn nữa lúc ấy nếu ông có nói chuyện với Hồ Chí Minh là nói trong một tư thế vượt trội không như chính quyền Nguyễn Văn Thiệu sau này, và thậm chí ngay cả Mỹ. Vì lúc ấy Mỹ đã bị dư luận toàn quốc và thế giới, kể cả Vatican làm áp lực không thương thuyết không được.

            Những nhà chính trị có liêm sỉ không thể không sám hối về những sai lầm nghiêm trọng của mình, nếu còn muốn chường mặt ra với công luận. Đáng buồn là những cuốn sách viết bằng ngoại ngữ của những người có trách nhiệm trong việc làm mất chính nghĩa đấu tranh chống cộng lại chỉ nhằm mục đích tự biện minh cho việc làm sai trái của mình.

            Đến nay lịch sử đã cho thấy rõ những người cầm đầu và tham gia hai cuộc đảo chính 1960 và 1963 đều làm theo lệnh ngoại bang. Họ dại dột không biết rằng lật một chính quyền đã được toàn dân bầu lên, ủng hộ và với hiến pháp được toàn dân bỏ phiếu tán thành, được trên 80 nước trên thế giới công nhận, để gây ra một lỗ trống chính trị nghiêm trọng trong lúc cuộc chiến chống cộng đang tiếp diễn một cách gay go là vô cùng nguy hiểm cho đất nước. Đến khi sự việc xảy ra họ vẫn không nhìn thẳng vào thực tế lịch sử để rút kinh nghiệm và sám hối.

            Đáng lý ra thay vì ngoan cố chỉ trích lên án nhà ái quốc Ngô Đình Diệm, họ biết hối lỗi bằng cách tố cáo Hồ Chí Minh, vạch cho dư luận ngoại quốc biết rõ huyền thoại về “người yêu nước Hồ Chí Minh”, về “cha già dân tộc Hồ Chí Minh”, để biến cái gọi là chính nghĩa của CS trở thành phi nghĩa, thì họ đã đái tội lập công. Nhưng họ lại chỉ biết vạch lá tìm sâu, bới bèo ra bọ, không ngừng xuyên tạc, bịa đặt để sỉ vả nhà ái quốc đã thà chết để giữ chủ quyền quốc gia hơn là sống để phải khuất phục ngoại bang. Họ có biết chăng, làm như vậy chỉ khiến cho những kẻ chiến đấu vì ảo tưởng xã hội chủ nghĩa, vì quyền lợi của Quốc Tế CS, đứng đầu là Liên Xô và Trung Cộng trở nên những nhà ái quốc, vì dám chống lại siêu cường Mỹ xâm lăng. Họ biết rằng họ phải làm hết cách đổ lỗi, chạy tội, để nhân dân, lịch sử không lên án, oán ghét họ, vì đã gây nên tội ác tầy trời, làm mất chính nghĩa của cuộc đấu tranh chống CS.

            Để kết thúc, chúng tôi mong rằng, chẳng cứ những nhân vật vừa kể, mà tất cả chúng ta, những người còn muốn cho con cháu mình về sau không lên án cha anh chúng là tay sai của Mỹ, bán nước cầu vinh, hãy làm hết cách để nêu cao chính nghĩa của cuộc chiến tranh chống cộng. Và điều trước tiên là hãy tháo gỡ những huyền thoại bao quanh nhân vật Hồ Chí Minh để con cháu chúng ta thấy rõ chân tướng của ông ta và của cái đảng mà ông ta sáng lập theo chỉ thị của quốc tế CS. Đó là cái khó của chúng ta. Nhưng muốn cho cuộc đấu tranh của chúng ta có chính nghĩa dân tộc, thì phải làm bằng mọi cách. Và khi đã hạ được thần tượng HCM rồi thì mới mong các hình thức đấu tranh khác đạt được kết quả mong muốn.

            Đó là vấn đề chính nghĩa cần lấy lại, vì khi vị tổng thống hợp hiến hợp pháp đầu tiên đã bị lật và bị giết để cho quân tác chiến Mỹ ồ ạt đổ vào, mà không do một lời yêu cầu chính thức hay một hiệp ước song phương, thì đảng CS Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh đã được nhân dân trong nước và thế giới cho là có chính nghĩa dân tộc, khi họ hô hào nhân dân “chống Mỹ cứu nước”.

 

7

Ba giờ
nghe một nhân chứng

 

 

 

M

ột trong những chứng nhân lịch sử quan trọng thời Đệ Nhất Cộng Hòa còn sống hiện nay được cộng đồng người Việt hải ngoại biết nhiều là ông Cao Xuân Vỹ. Ông là người hàng năm vẫn tổ chức lễ giỗ Tổng Thống Ngô Đình Diệm, nhân danh chủ tịch Hội Ái Hữu Người Việt Quốc Gia Hải Ngoại. Có thể nói ông là phụ tá thân cận nhất của ông Ngô Đình Nhu, bào đệ và cố vấn chính trị của Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Với tư cách là phó thủ lãnh Thanh Niên Cộng Hòa mà ông Ngô Đình Nhu là thủ lãnh, ông Cao Xuân Vỹ thường có dịp gần gũi ông Nhu hầu như người trong gia đình. Vì vậy ông cũng hay ra vào dinh Độc Lập và năng được gặp Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Ông còn được biết đến nhiều hơn nữa vì lịch sử ghi rằng ngày 1-11-1963 ông đã cung cấp một chiếc xe Citroen 2 ngựa và tài xế là một thiếu tá quân đội để đưa hai anh em ông Diệm từ dinh Gia Long đến Chợ Lớn tạm lánh tại nhà một thương gia người Việt gốc Hoa tên là Mã Tuyên. Ông Mã Tuyên, tuy đã theo “Cụ Ngô” từ khi Cụ chưa xuất ngoại, nhưng lúc này đang là một đoàn trưởng Thanh Niên Cộng Hòa dưới tay ông Vỹ.

            Trước ngày “Tứ Thất” (thứ 7 mồng 7 tháng 7 năm 2007) để nhớ lại ngày Song Thất (7-7-1954) là nguồn gốc của Đệ Nhất Cộng Hòa, ông tổ chức một buổi họp mặt thân hữu giữa mấy người từng có dịp tiếp xúc với ông và ông Nhu thời xưa nay còn sống. Trong dịp này ông đã có nhã ý điện thoại gọi tôi tới, chỉ vì ông đã đọc và “thích” cuốn sách và mấy bài báo tôi viết về cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm gần đây. Chứ thời đó chẳng bao giờ tôi được hân hạnh gặp ông, chứ đừng nói đến gặp Tổng Thống hay ông Cố Vấn.

            Trong cuốn Ngô Đình Diệm Lời Khen Tiếng Chê tôi đã trích dẫn cả chục tác giả Việt, Mỹ chỉ trích Tổng Thống Diệm một cách thậm tệ. Mấy bạn đọc trách tôi sao đưa những tay Đỗ Mậu, Nguyễn Chánh Thi, Nguyễn Cao Kỳ, Neil Sheehan vân vân… vào làm dơ cuốn sách đi. Một luật sư trẻ ở Seatle, WA, còn viết cả một bài báo đăng trên bán nguyệt san Văn Nghệ Tiền Phong của ký giả Hồ Anh là người vốn tôn sùng ông Diệm. Mục đích của tác giả bài báo không phải để chỉ trích tác giả cuốn sách, (vì ông bảo ông chưa đọc) mà là phê bình người giới thiệu cuốn sách bằng một bài báo dài đăng trên tờ Ngày Nay ở Houston là giáo sư cựu bộ trưởng Tôn Thất Thiện. Luật sư Trương Phú Thứ trách giáo sư Tôn Thất Thiện “đem vàng ròng (chỉ Tổng Thống Diệm) đặt bên bãi cứt trâu (ông Đỗ Mậu)”.

            Khi có dịp gặp ông Vỹ ít lâu sau đó, tôi ướm thử: “Tôi nêu lên những lời khen và cả tiếng chê cho khách quan và công bình”. Ông liền nói: “Tôi thích anh cứ đăng cho thật nhiều tiếng chê hơn nữa.” Ý ông muốn nói, chính những lời phê bình chỉ trích của những kẻ chủ mưu hay tham gia đảo chính lật Tổng Thống Diệm càng nâng cao giá trị của ông và càng hạ phẩm cách của họ.

            Vì thế trong số mấy người đếm trên đầu ngón tay được mời tham dự bữa ăn trưa thân mật tại nhà ông Vỹ tôi là người duy nhất chưa bao giờ được hân hạnh gặp Tổng Thống Diệm hay ông Cố Vấn Nhu.

            Trong lần tiếp xúc thân mật này, tôi mới hiểu rõ hơn nữa ý nghĩa của lời nói trên của ông Vỹ. Ông đã được chứng kiến những việc làm của vị tổng thống mà ông tôn thờ. Ông tin tuyệt đối vào nhân cách, tài ba và đạo đức của thần tượng của ông. Ông tin rằng những kẻ dám đả kích pho tượng kiên cố đó là họ tự đập đầu vào đá mà thôi.

            Hôm nay ông bảo: Tôi lấy làm lạ là sao bên Công Giáo không đề nghị phong thánh cho “ông Cụ”. Rồi ông kể ra, nào bữa cơm thanh đạm hàng ngày, nào chiếc phản gỗ trải chiếu trong phòng ngủ, cũng là phòng làm việc, của Tổng Thống Diệm, nào Tổng Thống luôn luôn tự tay giặt quần áo lót, nào sự độ lượng khoan dung đối với tên tử tội mưu sát Tổng Thống tại hội chợ ở Ban Mê Thuột, nào việc cho trùng tu ngôi mộ ở miền Tây của thân phụ ông Hồ Chí Minh là Nguyễn Sinh Sắc. Ông Vỹ bảo Tổng Thống Diệm khen cụ Sắc là “người hay chữ”. Ông Vỹ nhắc lại rằng Tổng Thống Diệm làm việc này không vì lý do chính trị hay có ý gì khác, mà chỉ vì tấm lòng của một người ham học và thâm Nho thích kẻ “hay chữ”.

            Nhân nói đến cái tài “hay chữ” của ông cử Sắc, ông Vỹ cho biết thêm, chính ông cố của ông đã can thiệp thẳng với vua Thành Thái để thân phụ ông Hồ được đậu phó bảng, vì ông ấy đã bị hội đồng giám khảo đánh hỏng rồi. Ông cố của ông Vỹ cũng khen ông cử Sắc hay chữ như Tổng Thống Diệm. Chẳng những khen và can thiệp cho được đậu phó bảng, ông cố của ông Vỹ còn giúp cho ông cử Sắc có việc làm. Thế mà về sau, trong Cải Cách Ruộng Đất, con ông cử Sắc đã để cho đàn em giết tất cả 9 người của dòng họ Cao ở Nghệ An, quê hương của ông Hồ.

 

            Ở trên chúng tôi dùng hai từ “tôn thờ” để nói về lòng kính mến của ông Vỹ dành cho Cụ Diệm, vì tôi có cảm tưởng đó ngay khi vừa bước vào căn nhà ấm cúng mà trang nghiêm với bức chân dung rất lớn của cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm đập vào mắt mọi người.

            Thấy tôi chăm chú nhìn bức chân dung nói trên, ông nói: Trước tấm ảnh này đã có không biết bao nhiêu người không ưa ông Cụ từng tới nghiêng mình kính cẩn. Kể cả những kẻ đã cổ võ, tham gia hay tán thành việc lật đổ Tổng Thống như Trần Văn Đôn, Bùi Diễm, Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Chánh Thi, Nguyễn Khánh. Hai ông sau này đã quì xuống. Còn Tôn Thất Đính thì quì lạy 4 lạy.

            Rồi ông Vỹ đăm chiêu nhớ lại:

            Cuối thập niên 80 thế kỷ trước, cựu hoàng Bảo Đại được mời sang Cali, đã tới căn nhà này thắp hương trước bàn thờ tổ quốc nhân dịp Tân Niên. Sau đó khi được đưa tới trước bức chân dung này, ông đã tần ngần đứng ngó với nỗi lòng khó tả. Ông Vỹ hỏi: Ngài có hận cụ Ngô không. Thì “nhà vua” đáp: Không. Lỗi là do tôi.

            Nghe ông Vỹ nói, chúng tôi lại nhớ tới bài báo của ký giả Phan Thế Trường đã từng hỏi cựu hoàng 2 câu hỏi về việc thoái vị “nhường ngôi” cho Hồ Chí Minh và việc lại trao toàn quyền dân sự và quân sự cho Ngô Đình Diệm để rồi mất hết quyền hành. Về câu hỏi liên quan đến ông Diệm, cựu hoàng trả lời ký giả là ông không trách ông Diệm vì việc ông bị truất phế là do “sức ép của thời cuộc”.

            Về ông bà Ngô Đình Nhu, dĩ nhiên ông Cao XuânVỹ biết nhiều và có nhiều kỷ niệm, nhưng trong bữa cơm thân mật chỉ kéo dài hai tiếng đồng hồ, ông cũng chẳng tiết lộ gì nhiều. Với tư cách chủ nhà mời khách tiếp khách, ông nói nhiều hơn ăn. Đúng ra ông chỉ nói chứ hầu như chẳng ăn gì. Đến cuối bữa ông mới thú thực, “sau bữa ăn này, tôi sẽ tới nhà thương để chuẩn bị cho một ca mổ dạ dầy theo đúng hẹn vào chiều nay”. Ở tuổi 87, ông đã yếu nhiều, đi đứng khó khăn, lại bị loét bao tử nên ăn uống phải kiêng khem. Nhưng trí óc còn minh mẫn. Ông thích nói nhiều về những kỷ niệm xa xưa. Những điều tôi ghi lại trong bài này không được xếp đặt trước, dù bởi tôi hay bởi chủ nhà. Vì tôi không dè là trong bữa ăn chủ nhà đã nói đến những điều mà tôi vốn muốn biết nhưng chưa từng được nghe nói. Nhưng tôi có cảm tưởng là ông có ý nói cho tôi nghe nhiều hơn các vị khác, bởi vì những vị đó toàn là những người đã gặp ông quá nhiều lần và cũng đã biết hầu hết những điều ông nói rồi.

            Khi được mời tôi cũng không nghĩ sẽ có dịp được nghe nhiều chuyện như thế này và cũng chẳng bao giờ dám nghĩ mình sẽ ghi lại những gì mắt thấy tai nghe tại đây hòng cống hiến độc giả. Vì vậy tôi đã không đem theo bút giấy. Không ghi chép. Cũng không đặt một câu hỏi, hay nêu một thắc mắc nào như các nhà báo thường làm. Vì thế đây chỉ là những gì còn để lại trong ký ức đã sa sút của một người luống tuổi.

            Ông Vỹ xác nhận lời ông Trần Văn Đôn đã từng viết cách đây khoảng 20 năm rằng ông Nhu đã bí mật gặp cán bộ cao cấp Cộng Sản là Phạm Hùng. Ông bảo Trung Tá Bường, tỉnh trưởng Bình Tuy là người lái xe và ông là người duy nhất cùng đi với ông Nhu. Nhưng chỉ có một mình ông Nhu vào gặp Phạm Hùng.

            Còn nhớ, sau khi bài Hoa Đào Và Máu Đào nói về cành đào ông Hồ tặng cụ Ngô dịp xuân Quý Mão được đăng trên Đàn Chim Việt, ông Cao Xuân Vỹ có gọi điện cho tác giả bài báo để cho biết thêm một sự kiện chưa được tiết lộ. Đó là trong chuyến công du cùng với ông Ngô Đình Nhu sang Ma-rốc dự lễ đăng quang của tân Quốc Vương, ông Vỹ đã được chứng kiến cuộc hội kiến giữa ông Nhu và nguyên thủ tướng Pháp Antoine Pinay (1891-1994), lúc ấy là bộ trưởng phủ Tổng Thống. Ông Pinay đại diện Tổng Thống Charles De Gaulle gặp ông Nhu để chuyển đề nghị của Hà Nội về một cuộc gặp gỡ cấp cao giữa hai miền Nam Bắc để bàn chuyện hiệp thương. Lúc ấy là khoảng mùa hè năm 1962.

            Trở lại cuộc gặp gỡ giữa ông Nhu và Phạm Hùng, lúc ấy người ngoài chỉ biết tỉnh trưởng Bình Tuy lái xe đưa ông Nhu và ông Vỹ đi săn cọp. Nói đến chuyện săn cọp, ông Vỹ cho biết ông Nhu rất thích săn cọp, và tỏ ra vô cùng kiên nhẫn. Nhiều khi phải chờ và rình rập cả ngày.

            Rồi ông liên hệ việc săn cọp với đức tính nhịn nhục, và kiên nhẫn của ông Nhu. Ông khen, thán phục, và “tội nghiệp” cho ông Nhu khéo chịu đựng trước sự nóng nảy, khó tính và quá tỉ mỉ của ông anh tổng thống, cũng như trước sự mè nheo, nói nhiều, nói dai của bà vợ xinh đẹp. Ông Vỹ bảo ông Nhu rất yêu vợ, sẵn lòng nghe bà nói với nét mặt tươi tỉnh vui vẻ, nhưng không bao giờ để bà ta xen vào việc chính trị của ông. Nghe thì cứ nghe. Nhưng không để bị ảnh hưởng bới những ý kiến mà có lần ông bảo là nông cạn của phụ nữ. Còn đối với Tổng Thống Diệm thì bà Nhu một mực cung kính, tuân phục. Ở trong dinh, bao giờ bà Nhu cũng ăn mặc chỉnh tề. Nghe đến đây tôi nhớ lại có bài báo của tác giả Nhân Hưng nào đó viết rằng ngày nay ở tuổi 80 bà Nhu vẫn còn nhắc lại chuyện Tổng Thống Diệm “có vẻ không bằng lòng”, khi thấy bà mặc áo hở cổ để tung ra cái mốt áo dài Bà Nhu một thời.

            Theo ông Vỹ thì sau khi bị giết trên xe bọc thép, ông Nhu đã bị nhiều người dị nghị là ông nghiện thuốc phiện. Vì trong đảo chính có người đã thấy một chiếc bàn đèn quý giá ở dinh Gia Long. Ông Vỹ – cũng như tất cả các sĩ quan tùy viên mà tôi có dịp hỏi – đã khẳng định rằng ông Nhu không nghiện thuốc phiện. Họ chẳng bao giờ ngửi thấy mùi thuốc khi ở bên ông. Chiếc bàn đèn đó, theo ông Vỹ, là của một người Pháp nhờ ông Tôn Thất Thiết, chánh sở Nội Dịch phủ Tổng Thống, mua giúp qua một thương gia người Việt gốc Hoa. Tất cả những người có mặt chưa bao giờ nghi ngờ là ông Nhu có hút thuốc phiện, nên chẳng ai nêu lên một câu hỏi về các chi tiết liên quan đến chiếc bàn đèn này.

            Trong bữa cơm có người nói đến cuốn hồi ký bà Nhu viết bằng tiếng Pháp rồi đang đích thân dịch ra tiếng Ý, tiếng Anh và tiếng Việt, mà bà bảo sẽ chỉ cho phép các con xuất bản sau khi bà đã từ giã cõi đời. (Nhưng xem ra bà còn sống lâu lắm, vì hiện nay đã ngoại bát tuần mà bà vẫn còn mạnh khỏe, sắc diện hồng hào, đi đứng nhanh nhẹn, và đi bộ hằng ngày tới một nhà thờ gần nhà để xem lễ, rồi ở lại dọn dẹp bàn thờ và cung thánh, theo lời của tác giả Nhân Hưng nói trên).

            Nhưng không rõ vì đâu, ông Vỹ và cựu bộ trưởng Tôn Thất Thiện có vẻ coi thường hồi ký của bà Nhu, mà chỉ quan tâm đến những bài diễn văn của ông Nhu đọc trong các lớp huấn luyện “Ấp Chiến Lược”. Ông Vỹ lấy trong hộc tủ ra tập hồ sơ dầy giơ lên và nói: Lúc này đây có ai có hứng thú biên tập và xuất bản tài liệu này không? Rồi ông chuyển sang một tài liệu quan trọng khác: Chúng tôi đang thu xếp để in một tác phẩm về lý thuyết chình trị của ông Nhu viết bằng Pháp văn mà lúc sinh thời ông bảo nó chưa hoàn chỉnh nên chưa cho xuất bản, chỉ phổ biến trong số những cán bộ thân cận. Nhưng sau khi ông mất thì có một vị bộ trưởng (ông Lê Văn Đồng, bộ trưởng Canh Nông?) đã dịch ra tiếng Việt dưới nhan đề là “Chính Đề”. Và tên tác giả (hay dịch giả?) là Tùng Phong. Cuốn sách dầy gần 400 trang, đang được đưa ra thương lượng với phu nhân vị bộ trưởng quá cố để được phố biến làm tài liệu chính trị có tính lịch sử.

            Những gì được nghe từ miệng một người thân cận với một nhân vật chính trị thời xa xưa khiến tôi đâm tò mò muốn biết nhiều hơn để cống hiến bạn đọc. Với điều kiện là sẽ được ông Cao Xuân Vỹ, sau khi đã bình phục, còn hứng thú dành cho chúng tôi một cuộc phỏng vấn có chuẩn bị trước. Xin xem chương kế tiếp “Mạn đàm với ông Cao Xuân Vỹ”.

 

           

 

8

Mạn đàm
với ông Cao Xuân Vỹ

 

 

N

hư đã hứa,[27] ông Cao Xuân Vỹ, sau ba lần vào cấp cứu và điều trị tại bệnh viện, đã vui lòng dành cho chúng tôi một cuộc phỏng vấn để cống hiến bạn đọc một số hồi ức và kỷ niệm của ông trong thời gian đi theo Việt Minh kháng chiến rồi về hợp tác với chính phủ Ngô Đình Diệm với tư cách là người phụ tá thân cận của ông Ngô Đình Nhu, bào đệ và là cố vấn chính trị của Tổng Thống Ngô Đình Diệm.

            1. Hỏi: Thưa ông, nghe nói ông cùng quê Nghệ An với ông Hồ Chí Minh?

            Đáp: Phải. Tôi người làng Thịnh Mỹ, phủ Diễn Châu ở về phía biển, còn ông Hồ ở xã Kim Liên huyện Nam Đàn về phía núi.

            2. Hỏi: Ông có thể cho biết gia đình ông có liên hệ gì với gia đình ông Hồ không?

            Đáp: Tôi được biết ông cố tôi là cụ Cao Xuân Dục, thượng thư bộ Học thuộc triều đình Huế có giúp đỡ thân phụ ông Hồ là Nguyễn Sinh Sắc về tài chính và khuyến khích, giúp đỡ ông ấy nhiều trong việc học hành để có thể đi thi và đậu phó bảng. Một phần vì ông Nguyễn Sinh Sắc là bạn học với ông nội tôi là Cao Xuân Tiếu. Đây là hình căn nhà ông nội tôi cho ông cử Sắc. (Ông Vỹ đưa xem hình căn nhà.)

            3. Hỏi: Có tài liệu của phía Cộng Sản, như của Sơn Tùng và Nguyễn Đắc Xuân nói, khi thấy ông Nguyễn Sinh Sắc thi hỏng khoa Ất Mùi, (năm 1895), ông Cao Xuân Dục đã giúp cho ông Nguyễn Sinh Sắc được vào Huế, để có phương tiện và đủ sách vở hầu tiếp tục việc học và có thể thành đạt. Điều này có đúng không?

            Đáp: Đúng. Ông cố tôi còn can thiệp để cho ông Nguyễn Sinh Sắc, dù không phải là con quan cũng được vào học ở Quốc Tử Giám. Đến khoa thi năm Tân Sửu (1901) chánh chủ khảo Cao Xuân Dục thấy khóa sinh Sắc không trúng tuyển đã cho lệnh xét lại bài thi của 4 thí sinh để rồi xin vua Thành Thái cho ông ta đậu phó bảng. Khóa ấy có 9 tiến sĩ, 13 phó bảng. Ông Sắc đậu phó bảng thứ 11.

            4. Hỏi: Hồi còn nhỏ ông có biết về hoạt động của Cộng Sản ở quê nhà và có chứng kiến các cuộc nổi dậy của Cộng Sản thường được gọi là phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh không?

            Đáp: Có. Phong trào này mạnh nhất ở hai huyện Nam Đàn và Thanh Chương. Nhiều người bị chết oan. Cộng Sản đã giết hai tri phủ. Vì thế phản ứng của chính quyền bảo hộ cũng rất quyết liệt. Pháp đem bom thả cũng giết nhiều người, trong số ấy có cả Cộng Sản lẫn thường dân. Cha tôi có kể lại rằng để đối phó với phong trào này, ông Nguyễn Hữu Bài, thượng thư bộ Lại của Triều Đình Huế, (tương đương với chức thủ tướng thời nay), đã cho áp dụng một kế hoạch chiêu dụ Cộng Sản khá thành công. Lúc ấy ông cố tôi cùng ở trong nội các Nguyễn Hữu Bài.

            5. Hỏi: Khi Việt Minh cướp chính quyền ông ở đâu? và có ủng hộ họ không?

            Đáp: Lúc ấy tôi đang học ở Hà Nội. Tôi nhớ là mấy tháng trước khi Việt Minh cướp chính quyền, thanh niên sinh viên Hà Nội chúng tôi rất hăng hái ủng hộ chính phủ Trần Trọng Kim, vì là chính phủ của Việt Nam độc lập đầu tiên, dù phải nhờ có người Nhật lật đổ người Pháp. Nhưng chúng tôi rất phấn khởi và đã ủng hộ hết mình. Tiếc rằng bỗng nhiên chính phủ này từ chức ngày 7 tháng 8 (1945). Thật khó hiểu. Tuy từ chức nhưng chính phủ Trần Trọng Kim vẫn xử lý theo lệnh nhà vua. Khi mà Việt Minh tới trám vào chỗ trống chính trị này thì chúng tôi đã đi theo Việt Minh. Chúng tôi không biết Việt Minh là cộng sản. Thực ra lúc ấy chả mấy người biết Việt Minh là cộng sản.

            6. Hỏi: Ông có gặp ông Hồ bao giờ không?

            Đáp: Có. Hồi ấy tôi ở trong phong trào thanh niên sinh viên tranh đấu. Chúng tôi được hai ông Hoàng Minh Giám và Phan Mỹ giới thiệu để gặp ông Hồ ở Bắc Bộ Phủ. Lúc ấy ông ấy có cái vẻ bề ngoài rất ân cần và dễ mến. Về sau tôi mới hiểu tại sao ông ấy đã chiêu dụ được nhiều người đi theo ủng hộ Việt Minh. Cho đến giờ này tôi vẫn nghĩ ông ta thật là thông minh và xảo quyệt. Lại được tay Võ Nguyên Giáp cũng rất thông minh trợ tá đắc lực. Tôi học với Võ Nguyễn Giáp 4 năm, Tôi biết ông ta rất rõ. Ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường đã tỏ ra sắc sảo và quả đoán… Rất “độc tài”. Nhưng dầu sao Võ Nguyên Giáp không thể sánh được với Ngô Đình Nhu. Còn Phạm Văn Đồng thì không đáng là học trò Ngô Đình Nhu.

            7. Hỏi: Rồi tại sao ông lại bỏ Việt Minh?

            Đáp: Vì chúng tôi kết án ông Hồ đã ký thỏa ước mồng 6 tháng 3, nhượng bộ Pháp quá nhiều. Hơn nữa họ đã hãm hại nhiều người yêu nước bất đồng chính kiến. Chúng tôi chạy sang phía Việt Cách của các ông Nguyễn Hải Thần và Nghiêm Kế Tổ…

            8. Hỏi: Khi nào thì các ông rời Hà Nội?

            Đáp: Liền khi cuộc chiến giữa Việt Minh và Pháp bùng nổ ngày 19-12-46. Lúc ấy ông Hồ và đại bộ phận Việt Minh chạy lên Việt Bắc kháng chiến. Thì chúng tôi gồm 36 nhà trí thức và thanh niên sinh viên tranh đấu chạy vào khu Tư, gồm Thanh Nghệ Tĩnh, để cùng với một số Việt Minh ôn hòa lập một phòng tuyến mới phi cộng sản chống thực dân và giúp dân mở mang về kinh tế và văn hóa. Có thể nói Liên Khu Tư lúc ấy như là một khu tự trị.

            9. Hỏi: Ông có thể cho biết tên một số trong 36 nhà trí thức mà ông bảo đã rời Hà Nội vào Liên Khu Tư sau kháng chiến bùng nổ không?

            Đáp: Tôi còn nhớ chẳng hạn có luật sư Trần Chánh Thành, các ông Trần Hữu Dương, Hồ Đắc Điềm, Phạm Thành Vinh, sau này trở thành rể của ông Hồ Đắc Điềm, ông Nguyễn Duy Quang, người của ông Bảo Đại, ông Phan Huy Xương, anh của bác sĩ Phan Huy Đán tức Phan Quang Đán, ông Tôn Thất Trạch v.v… Các ông này về sau đã hợp tác với Thủ Tướng Ngô Đình Diệm. Ông Trần Chánh Thành từng là bộ trưởng phủ Thủ Tướng, với ông Tôn Thất Trạch là đổng lý văn phòng. Ngoài ra, về phía thường dân tôi nhớ còn có bà Hòa Tường là một thương gia giầu có ở phố Hàng Đào cũng đi theo.

            Tôi xin nói thêm ông biết điều này, là những vị này và tôi hồi đầu theo Việt Minh. Nhưng tất cả đều không phải Cộng Sản. Và ngay từ 1930 thì đã có hai phe cùng chống Pháp một bên là Đảng Cộng Sản, lúc ấy chưa có Việt Minh. Một bên là các nhân vật và tổ chức quốc gia phi cộng sản trong đó ngoài những người như ông Ngô Đình Diệm đã bắt đầu hoạt động từ đó, còn có các chiến sĩ Việt Nam Quốc Dân Đảng, mà đảng trưởng là Nguyễn Thái Học và 13 đồng chí đã bị Pháp xử bắn.

            10.       Hỏi: Khi nào ông rời Liên Khu Tư vào Sài Gòn và gặp ông Ngô Đình Nhu?

            Đáp: Chúng tôi rời Liên Khu Tư ra Hà Nội. Chứ chưa vào Sài Gòn. Lúc ấy là vào khoảng đầu năm 1953. Ông Hồ Chí Minh theo lệnh Stalin và Mao Trạch Đông khởi sự chuẩn bị mở chiến dịch Giảm Tô và Cải Cách Ruộng Đất. Có người thân trong Việt Minh cho chúng tôi biết. Nên tìm đường chạy trước. Về sau trong họ tôi có nhiều người có chút tư điền bị đem ra đấu tố. Chị ruột tôi cũng bị giết. Tôi “dinh tề” qua ngả Phúc Nhạc, Phát Diệm là khu an toàn tự trị dưới quyền trông coi của giám mục Lê Hữu Từ. Khó khăn lắm mới tới được Hà Nội. Hà Nội lúc ấy đang sống an bình dưới chính quyền Bảo Đại. Tôi đi thoát được là nhờ có người chú họ ở trong tổ chức Việt Minh cấp cho một giấy thông hành. Ở Hà Nội tôi gặp lại các ông Đặng Văn Sung, Phan Huy Quát từng hoạt động chung với chúng tôi thời 1945.

            Trong thời gian còn ở Liên Khu Tư chúng tôi nghe biết cán bộ Cộng Sản trong tổ chức Việt Minh chịu ảnh hưởng rất lớn bởi cán bộ Trung Cộng. Sau khi Mao Trạch Đông chiếm trọn lục địa vào cuối năm 1949, ông ta đã bắt Hồ Chí Minh gửi một số lớn cán bộ Việt Cộng sang Tầu để tẩy não, cải tạo tư tưởng, bắt học tập chủ nghĩa Mao-ít. Vì cái chủ nghĩa này mà các chiến dịch Giảm Tô và Cải Cách Ruộng Đất đã đẫm máu với những vụ con tố cha, vợ tố chồng và nông dân tàn sát lẫn nhau thật rùng rợn. Làng tôi có ông hàn Lương biết mình sắp bị đưa ra đấu tố đã nhảy xuống giếng tự tử, vậy mà đội cải cách đã lôi xác ông lên để đấu cái thây ma. Chúng đánh nát bấy cái thây ấy. Tôi mong có người thâu thập những tin tức khắp nước về cuộc Cải Cách Ruộng Đất thời gian đó để cho mọi người biết Cộng Sản dã man chừng nào.

            11.       Hỏi: Khi nào thì ông gặp ông Ngô Đình Nhu?

            Đáp: Cuối năm 1953. Tôi vào Sài Gòn thì gặp lại ông Trần Chánh Thành. Ông Thành giới thiệu tôi với ông Nhu. Ông Thành vào Sài Gòn năm 1952 cùng một lượt với phần lớn trong số 36 nhà trí thức đã vào Liên Khu Tư để kháng chiến chống Pháp nhưng bất hợp tác với Việt Minh. Lúc gặp lại tôi thì ông Thành đang làm cho tờ báo Xã Hội của ông Nhu, đồng thời tập sự luật sư với luật sư Trương Đình Dzu…

            12.       Hỏi: Theo chỗ chúng tôi biết thì ông Ngô Đình Nhu từng có 5 nhiệm vụ quan trọng: một là dân biểu Quốc Hội, hai là Cố Vấn Chính Trị của Tổng Thống, ba là thủ lãnh Thanh Niên Cộng Hòa, bốn là Tổng Bí Thư đảng Cần Lao Nhân Vị, và sau hết vào năm cuối cùng ông còn là chủ tịch ủy ban liên bộ về Ấp Chiến Lược. Vậy ông ấy có một lực lượng nhân sự nào đáng kể để giúp thi hành chừng ấy nhiệm vụ không? Ví dụ ông ấy có mấy văn phòng? Có bao nhiêu nhân viên được ăn lương?

            Đáp: Ông ấy chỉ có một mình Thiếu Tá Phạm Thu Đường làm chánh văn phòng, thường được gọi là chánh văn phòng ông Cố Vấn. Và dưới quyền Thiếu Tá Đường chỉ có 5 nhân viên, hầu hết tự túc. Không có ngân khoản nào dành cho ông Cố Vấn. Và phải nói thực khó hiểu là chính chức Cố Vấn này cũng chẳng được một văn kiện nào bổ nhiệm hay quy định nhiệm vụ. Thực tế ông Nhu chỉ giúp việc cho riêng ông Diệm với tư cách là phụ tá cho Tổng Thống. Người ta thấy việc ông làm thì gọi ông là Cố Vấn vậy thôi. Vì thế ông không có quyền hạn và nhiệm vụ gì chính thức.

            Còn về thủ lãnh Thanh Niên Cộng Hòa, thì ông chỉ thị cho chúng tôi, phải tự túc. Mọi đoàn viên đều tự nguyện và tự túc theo tinh thần cách mạng. Cho nên cũng chẳng có quyền lợi gì.

 

Hình 2: Ông Ngô Đình Nhu trong phòng làm việc tại
dinh Tổng Thống.

            Về văn phòng dân biểu, ông cũng không có. Thực ra ông ấy rất ít đi họp Quốc Hội. Chỉ khi nào có vấn đề chính sách quan trọng như Ấp Chiến Lược chẳng hạn, hay vấn đề “Giáo Dục Nhân Bản”, vấn đề “Kinh Tế Tư Hữu Cơ Bản” v.v… thì ông mới tới trình bày mà thôi. Cho nên mọi thứ một mình ông cáng đáng. Tôi thật phục sức làm việc của ông Nhu.

            13.       Hỏi: Thế còn chức chủ tịch ủy ban liên bộ về Ấp Chiến Lược thì sao? Có văn thư nào quy định không?

            Đáp: Chức này thì có. Nhưng cũng chỉ là một thông tư của phủ Tổng Thống gửi đến các bộ, để việc ông chủ tọa các phiên họp Ủy Ban Liên Bộ được danh chính ngôn thuận. Ông Nhu quan niệm chương trình Ấp Chiến Lược là một cuộc cách mạng xã hội và chính trị, chứ không phải chỉ là một chiến lược để đối phó với sự xâm nhập và khủng bố của Cộng Sản mà thôi. Ông thúc đẩy các tỉnh trưởng khai hóa người dân quê theo tinh thần tam túc, nghĩa là tự túc về tư tưởng, tự túc về tổ chức và tự túc về kỹ thuật, để có thể làm chủ cuộc đời mình, làm chủ được xã hội, không bị lệ thuộc vào bên ngoài, vào ngoại bang. Ông để rất nhiều thì giờ đích thân soạn những bài thuyết trình có tính lý luận cao dành cho các cấp lãnh đạo chính phủ và cán bộ cao cấp, chỉ cho họ cách thức đưa những tư tưởng cao vào đầu óc thường dân qua những hình ảnh và ngôn ngữ bình dân dễ hiểu. Mục đích của ông là tiến dần tới một xã hội có tổ chức cao, có đầy đủ các phương tiện truyền thông, giao tế, kinh tế, văn hóa cao trong đó mỗi con người, “mỗi nhân vị”, đều được quan tâm đồng đều, chứ không biến con người thành những “cái đinh, con ốc” trong một guồng máy xã hội theo kiểu Cộng Sản. Ông tin tưởng rằng phương pháp đó về lâu về dài sẽ làm cho CS phải đầu hàng. Chứ không phải chỉ dựa vào những hàng rào dây kẽm gai. Dĩ nhiên ban đầu thì việc rào ấp là cần thiết để giữ cho Ấp Chiến Lược được an toàn trước sự phá hoại và tấn công của du kích CS. Quốc sách Ấp Chiến Lược mà thành công thì Cộng Sản sẽ thành cá bị tát ra khỏi ao, nằm trên đất.

            14.       Hỏi: Về đảng Cần Lao Nhân Vị, nó thành hình ra sao, và ai là những đồng chí cốt cán nhất của ông Nhu?

            Đáp: Hai người cùng với ông Nhu sáng lập ra đảng Cần Lao Nhân Vị là các ông Trần Quốc Bửu và Huỳnh Hữu Nghĩa. Nhưng ban đầu các ông không gọi tên đảng là Cần Lao mà gọi là đảng Công Nông. Nhưng vì không muốn gợi ý về cái liên minh công nông của Cộng Sản, nên về sau các ông đổi ra là Cần Lao. Còn vế Nhân Vị thì sau nữa mới thêm vào theo đề nghị của ông Nhu. Ông Bửu, chủ tịch Liên Đoàn Lao Công có kinh nghiệm về đấu tranh nghiệp đoàn, đã quen ông Nhu khi còn ở bên Pháp. Và ông Huỳnh Hữu Nghĩa một tín đồ Cao Đài, là cố vấn chính trị của tướng Trình Minh Thế. Ông Nghĩa đã giúp ông Nhu chinh phục được tướng Thế, chứ không phải như có người Mỹ cho rằng ông Nhu có được ông Thế là nhờ đại tá Edward Lansdale. Ông Lansdale có can thiệp để quân của tướng Thế được hợp thức hóa và trả lương như Quân Đội Quốc Gia thì đúng. Người nào bảo Lansdale dùng tiền mua tướng Thế là cố tình xuyên tạc để hạ uy tín của một vị tướng kiên cường anh dũng, thanh liêm mà anh em ông Diệm rất quý trọng. Khi nghe tin tướng Thế tử trận Tổng Thống Diệm đã ngất xỉu. Điều này tướng Lansdale có ghi trong hồi ký.

            Văn phòng Tổng Bí Thư đảng Cần Lao cũng do một mình Thiếu Tá Phạm Thu Đường quán xuyến, kiêm nhiệm.

            15.       Hỏi: Ông Ngô Đình Diệm có giữ vai trò gì trong đảng Cần Lao không?

            Đáp: Không. Ông ấy hoàn toàn ở ngoài và trên đảng Cần Lao. Với ông Diệm chỉ có Tổ Quốc và Quốc Dân. Tôi còn nhớ khoảng năm 1956, Tổng Thống gọi tôi vào bảo tôi lên cao nguyên đèo heo hút gió để quan sát nghiên cứu tìm ra những địa điểm thích hợp để lập các khu dinh điền, hòng đưa người Kinh lên trấn giữ địa điểm mà ông bảo là vô cùng quan trọng về mặt chiến lước. Tôi thấy mình đi thì ông Nhu thiếu một trợ lý. Lại cũng hơi ngán cảnh cô đơn ở nơi xa lạ. Tôi bèn thưa với Tổng Thống: Công tác đoàn thể của ông Cố Vấn đang thiếu người. Tổng Thống nói: Đoàn thể gì. Dẹp. Tuy nhiên rồi ông cũng đấu dịu. Cứ đi đi. Thỉnh thoảng tôi sẽ lên với anh… Cũng cần thêm rằng ông Diệm rất quan tâm đến vùng cao nguyên. Ông thường nói: giữ được cao nguyên thì giữ được miền Nam. Và ông tìm cách đưa nhiều cán bộ và những người dân có kinh nghiệm với Cộng Sản lên đó lập nghiệp.

            16.       Hỏi: Ông nghĩ gì về việc chính phủ Ngô Đình Diệm tổ chức trưng cầu dân ý truất phế ông Bảo Đại?

            Đáp: Nhiều người chê ông Diệm, là nhà Nho mà bất trung, không giữ lời thề trung thành với cựu hoàng. Nhưng tôi thấy không đúng. Trước hết chính cựu hoàng chỉ yêu cầu ông Diệm thề trước Thánh Giá trung thành với Tổ Quốc. Thứ nữa, khi cựu hoàng triệu ông sang Pháp, ông Diệm đã sẵn sàng lên đường, dù biết sang đó sẽ mất chức thủ tướng.

            Nhưng chính nhóm Liên Khu Tư chúng tôi đã thuyết phục ông, gần như làm áp lực với ông, để ông bỏ ý định sang Cannes. Chúng tôi xúm vào yêu cầu ông ở lại lấy cớ tình hình không cho phép vắng mặt. Chúng tôi phải nói với Thủ Tướng rằng nếu Cụ bỏ chúng tôi lại mà đi một mình thì sinh mệnh chúng tôi ai sẽ lo? Chúng tôi đã bỏ tất cả vào đây là vì Cụ, vì tin Cụ sẽ bảo vệ phần đất tự do còn lại này, bảo vệ chúng tôi. Nay Cụ nỡ lòng nào bỏ chúng tôi, bỏ đất nước này cho Thực Dân, Cộng Sản? Rồi nhiều đoàn thể họp nhau lại đặt ông Diệm trước sự việc đã rồi là tự ý hạ bệ ông Bảo Đại. Cuộc trưng cầu dân ý của chính phủ Ngô Đình Diệm tổ chức sau đó chỉ là để hợp pháp hóa hành động của chúng tôi.

            17.       Hỏi: Có sử gia Mỹ bảo ngày 22 tháng 8 năm 1963, Thanh Niên Cộng Hòa đã tấn công chùa Xá Lợi cùng với Cảnh Sát và Lực Lượng Đặc Biệt. Điều này có đúng không?

            Đáp: Hoàn toàn bịa đặt. Tổ chức này không phải để dùng vào những việc như vậy. Nó là tổ chức phi vũ trang mà.

            18.       Hỏi: Sử gia Mark Mayor viết trong tác phẩm Triumph Forsaken rằng gần ngày đảo chính, tỉnh trưởng Định Tường báo cáo với ông Nhu rằng đại tá Có là phụ tá của tướng Đính rủ ông ta làm đảo chính. Ông Nhu hỏi lại tướng Đính, thì tướng Đính xin đi chém đầu Có. Ông có biết vụ này không?

            Đáp: Không cần tỉnh trưởng Định Tường báo cáo thì ông Nhu đã biết rồi. Nhưng ông muốn cứ để vậy để theo dõi.

            19.       Hỏi: Khi ông cùng ông Nhu đi gặp Phạm Hùng ở Bình Tuy, ông Nhu có cho ông biết hai người họ bàn chuyện gì không?

            Đáp: Lúc ấy thì không. Chỉ biết chúng tôi cùng đến quận Tánh Linh, ở đây có một vùng do Cộng quân kiểm soát. Ban đầu cứ tưởng đi săn cọp như mọi khi. Nhưng đến nơi ông Nhu bảo chúng tôi ở ngoài, còn ông đi về phía trước độ vài trăm mét. Có Phạm Hùng chờ ở đó. Sau này về nhà tôi cũng không tiện hỏi ông Nhu. Nhưng qua những gì ông tự ý nói ra vào một lúc nào đó thì, nội dung câu chuyện trên một tiếng đồng hồ, gồm nhiều điều cho đến nay vẫn chưa được tiết lộ. Có một điều mà phía họ rất quan ngại, nếu không bảo là sợ, rất sợ, chương trình Ấp Chiến Lược. Họ yêu cầu cho biết ai là người chủ trương và mục đích để làm gì? Ông Nhu trả lời: đó chỉ là một chủ trương của chính phủ nhằm bảo vệ sinh mạng và tài sản của người dân, ngăn ngừa sự xâm nhập, phá phách của du kích các ông… Các ông bảo cán bộ đừng tìm cách đánh phá làng xã, thì chúng tôi sẽ bỏ luật 10/59. Cán bộ các ông có thể về sống với dân lành tại các ấp…

            Về các điều kiện để hiệp thương thì nhiều lần Tổng Thống Diệm đã nói, phải có 6 giai đoạn:

      –   Bắt đầu bằng việc cho dân hai miền trao đổi thư tín tự do.

      –   Rồi cho dân qua lại tự do

      –   Thứ 3 là cho dân hai bên được tự do chọn định cư sang bên kia nếu muốn

      –   Thứ 4 mới đến giai đoạn trao đổi kinh tế. Ví dụ miền Nam đổi gạo lấy than đá của miền Bắc chẳng hạn.

      –   Qua được các giai đoạn đó rồi mới tiến tới hiệp thương.

      –   Và sau cùng là tổng tuyển cử.

            Có lần ông Nhu tính với chúng tôi: Ông dự đoán rằng, nếu cho dân tự do chọn nơi định cư, thì căn cứ theo tình trạng về tự do dân chủ tồi tệ và kinh tế kiệt quệ của miền Bắc lúc ấy, sẽ có khoảng 3 triệu người dân sẽ dần dần vào định cư ở miền Nam. Vì vậy “mình” phải chuẩn bị đất cho dân. Ông cũng tính rằng hiện dân số miền Bắc có tới 23 triệu, trong khi dân số miền Nam chỉ có 17 triệu. Nếu có được 3 triệu dân Bắc vào định cư ở miền Nam thì dân số 2 bên sẽ cân bằng. Bầu cử tự do, với sự giám sát của quốc tế thì mình sẽ chắc thắng.

            20.       Hỏi: Lần ông tháp tùng ông Nhu đi dự lễ đăng quang của Quốc Vương Ma-rốc năm 1962, ông có cho biết là sau đó các ông đến Paris gặp ông Pinay, đại diện Tổng Thống Charles De Gaulle, bàn chuyện hiệp thương với ông Hồ. Lúc ấy có mặt giáo sư Bửu Hội không?

            Đáp: Dĩ nhiên là có. Vì giáo sư Bửu Hội là đại sứ của VNCH ở Ma-rốc, và là bạn học với ông Nhu ở bên Pháp. Ông Bửu Hội lại từng là cố vấn cho Hồ Chí Minh. Nên trong việc này, có thể nói vai trò của ông Bửu Hội cũng quan trọng không kém ông Nhu. Ông Nhu và chúng tôi ở khách sạn Grillon cả tháng. Cuộc tiếp xúc xảy ra nhiều lần mà hầu như lần nào cũng có sự hiện diện của giáo sư Bửu Hội. Ông Nhu cho biết lúc ấy ông Hồ Chí Minh đã nhờ ông Jean Sainteny xin Tổng Thống De Gaulle giúp. Ông Hồ biết là ông De Gaulle đang có chủ trương trung lập hóa Đông Dương, lại hận Mỹ đã “hất cẳng” Pháp. Ông Hồ nhờ Sainteny xin Tổng Thống De Gaulle can thiệp để tiếp xúc với Sài Gòn. Tổng Thống Pháp rất sốt sắng trong việc này. Sau chuyến đi này ít tháng thì xảy ra vụ ông Nhu “đi săn cọp” ở Tánh Linh.

            21.       Hỏi: Gần ngày đảo chính Đại Sứ Cabot Lodge có điện đàm với Tổng Thống Diệm. Lúc đó ông có ở bên cạnh Tổng Thống không?

            Đáp: Không.

            22.       Hỏi: Trong cuốn Nhớ Lại Những Ngày ở Cạnh Tổng Thống Ngô Đình Diệm, cựu đại tá Nguyễn Hữu Duệ viết rằng ông ta xin phép Tổng Thống đem xe tăng thiết giáp lên bộ Tổng Tham Mưu để bắt các tướng và dẹp đảo chính. Nhưng Tổng Thống không cho. Ông có biết chuyện này không?

            Đáp: Lúc ấy tôi đang ở bên Tổng Thống Diệm và ông Nhu tại dinh Gia Long. Chính tôi nghe điện thoại của ông Duệ và trình lên Tổng Thống. Tổng Thống la tôi: Các anh muốn gì? Ở với tôi bấy lâu mà không hiểu ý tôi sao? Dân Nghệ An các anh chỉ thích làm loạn. Đem quân đội chống quân đội là cách bảo vệ tổ quốc hả? Tôi thưa: Nhưng người ta đánh mình thì mình phải đánh lại chứ Tổng Thống. Chẳng lẽ để phải chết sao? Ông quát lên: Chết thì đã sao. Đúng, đối với ông chết thì đã sao. Nhưng đối với chúng ta thì cái chết của ông là cái chết dần của miền Nam. Ông còn nói quân đội là để bảo vệ tổ quốc chứ không phải để bảo vệ cá nhân Tổng Thống. Ông bảo tôi liên lạc với ông Trương Vĩnh Lễ, chủ tịch Quốc Hội yêu cầu cho triệu tập Quốc Hội để ông ra từ chức trước Quốc Hội, hòng tránh cảnh đổ máu. Nhưng tôi gọi ông Lễ 4 lần không được.

            Lúc ấy không phải chỉ có Lữ Đoàn xin lên tấn công tổng hành dinh của nhóm đảo chính. Mà còn có cả một đại đội biệt kích thuộc Lực Lượng Đặc Biệt đi hành quân ở Tây Ninh vừa về đến Sài Gòn cũng báo cáo là lực lượng phòng vệ của các tướng đảo chính ở Tổng Tham Mưu rất yếu, đại đội biệt kích xin phối hợp với 2 tiểu đoàn của Lữ Đoàn Phòng Vệ phủ Tổng Thống để đột kích vào bắt hết các tướng đảo chính. Tướng Phạm Văn Phú, lúc ấy còn là thiếu tá đã tiếp xúc với tôi về việc này. Nhưng như vừa nói, Tổng Thống không chấp thuận.

            Viên đại úy đại đội trưởng Biệt Kích đề nghị cho lực lượng của Lữ Đoàn Phòng Vệ Phủ Tổng Thống có xe bọc thép dẫn đầu tiến tới bao vây bộ Tổng Tham Mưu, còn đại đội của anh ta sẽ đột kích bọc hậu từ phía sân vận động vào bắt sống các tướng. Tôi rất buồn bực và lấy làm khó hiểu tại sao ông cụ lại không cho đánh. Ông Nhu ngồi cạnh đó cũng chẳng nói gì.

            23.       Hỏi: Theo ông trong số các tướng lãnh lúc ấy ai có khả năng nhất?

            Đáp: Tôi hầu như không tiếp xúc với các tướng. Ngay cả Phó Tổng Thống cũng vậy. Hầu như chẳng bao giờ gặp. Nhưng tôi có nghe ông Nhu nói ông Nguyễn Văn Thiệu, lúc ấy mang lon đại tá, là một tư lệnh (sư đoàn 5) giỏi nhất. Ông Nhu có nhận xét đó sau khi nghe ông Thiệu thuyết trình ở hội trường Suối Lồ Ồ.

            Còn các tướng thì rất sợ Tổng Thống Diệm mỗi khi phải thuyết trình cho ông về tình hình an ninh. Bởi vì ông nắm vững tình hình và nhất là địa hình, địa vật, địa lý… của từng vùng. Kiến thức về quân sự của ông cũng rất uyên bác. Tôi được biết, khi mới về nước làm thủ tướng, ông đã yêu cầu Tổng Lãnh Sự ở Hồng Kông mua cho ông tất cả tác phẩm của Mao Trạch Đông, Chu Đức, Lâm Bưu, Bành Đức Hoài để đọc và bắt ông Nhu phân tích nghiên cứu trình lên.

            24.       Hỏi: Nghe nói ông bà Nhu có một biệt thự đẹp lắm ở Đà Lạt. Ông có tới đó bao giờ không?

            Đáp: Ông nói đến cái biệt thự này, tôi lại nhớ tới cái ông luật sư Trương Phú Thứ ở Seattle. Ông ấy muốn tìm cách phỏng vấn bà Ngô Đình Nhu mà không sao được. Chẳng rõ tại sao ông ta biết nhà tôi, tìm đến xin tôi giới thiệu với bà Nhu. Tôi biết đã từ lâu bà ấy ẩn dật không muốn báo chí nhắc tới. Nhưng tôi biết bà ấy hãy còn quyến luyến ngôi nhà hai phòng ngủ của một người Pháp, bỏ hoang đã lâu mà anh em chúng tôi hùn tiền mua cho ông bà ấy vào khoảng năm 1960, mà không đủ tiền sửa chữa, cho nên đến khi ông Nhu bị sát hại và bà Nhu sống lưu vong, cũng mới chỉ sửa được phân nửa.

            Tôi bảo ông Thứ hãy về Việt Nam, lên Đà Lạt chụp ảnh ngôi nhà ấy rồi mang theo sang Pháp, tìm cách đưa tấm hình đó tận tay bà Nhu thì may ra bà ấy cho gặp. Thì quả thật chắc ông đã biết, ông Thứ đã viết một bài cho tờ Văn Nghệ Tiền Phong nói về bà Nhu ở tuổi gần bát tuần sống như một nhà tu ở Paris. Tôi mong ông Thứ có dịp phổ biến tấm hình này để độc giả thấy cái “ngôi biệt thự xinh đẹp” của ông bà Nhu.

            25.       Hỏi: Thống Tướng Maxwell Taylor, Đại Sứ Frederick Nolting và nữ ký giả Marguerite Higgins đều nói được Tổng Thống Diệm tiếp hơn kém khoảng 5 giờ đồng hồ. Ông có biết điều đó và có ý kiến gì không?

            Đáp: Lúc ấy nhiều người nói Tổng Thống tiếp khách lâu quá. Tôi có trình ông, bảo người ta phê bình Tổng Thống độc thoại! Ông cười. Ông bảo: người Mỹ họ ít hiểu về dân tộc mình, về lịch sử của nước mình. Mình phải lợi dụng lúc họ chịu nghe để nói cho họ hiểu chứ. Mấy người này đều chăm chú nghe tôi và đặt nhiều câu hỏi. Tôi phải trả lời cho họ chứ.

            26.       Hỏi: Gần ngày đảo chính Tổng Thống có mời ông bà Đại Sứ Mỹ lên Đà Lạt nghỉ tại biệt điện của Tổng Thống và dự dạ tiệc thân mật. Ông có biết họ thảo luận về việc gì không?

            Đáp: Tôi có biết và nhớ là Tổng Thống đề nghị chính phủ Mỹ thông cảm những khó khăn của miền Nam và đừng ép ông phải cải cách gấp rút. Ông cũng hứa sẽ xem xét những đề nghị của chính phủ Mỹ một cách nghiêm chỉnh. Nhưng cần phải có thời gian. Phía ông Lodge thì nằng nặc đòi Tổng Thống phải đưa ngay ông Nhu ra ngoại quốc. Nhưng dĩ nhiên không bao giờ Tổng Thống nhượng bộ điều này được.

            27.       Hỏi: Xin ông tha lỗi, ông là Phật tử chứ ạ? Và trong vụ Phật Giáo có ai nhờ ông làm trung gian để thương lượng giàn xếp giữa chính quyền và bên Phật Giáo đấu tranh không?

            Đáp: Phải, tôi là Phật tử đã quy y… – Ông vào phòng lấy ra một cuộn giấy mở cho tôi thấy tờ PHÁI QUY Y rồi nói tiếp – Tôi quy y với thầy Thích Minh Châu. Khi vụ Phật Giáo xảy ra tôi có ra Huế gặp thầy Thích Trí Thủ để nhờ thầy can thiệp với Thượng Tọa Thích Trí Quang… nhưng Hòa Thượng Trí Thủ nói bây giờ các thầy trẻ học thức nhiều, họ có đường lối riêng, các sư già chúng tôi nói họ không nghe. Nên không kết quả. Nhiều người khác cũng can thiệp nhiều ngả khác, cũng không hơn gì. Hồi ấy còn cả một ủy ban của chính phủ gồm nhiều Phật tử đứng đầu là phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ cố gắng dàn xếp. Nhưng bên Phật Giáo tranh đấu chỉ muốn lật đổ chính phủ thôi. Nên họ cố đưa ra những yêu sách không cách nào làm được. Tôi rất ân hận là không giúp gì được với tư cách là một Phật tử.

            28.       Hỏi: Theo ông thì ai cố ý giết hai ông?

            Đáp: Theo tôi thì người ra lệnh trực tiếp là tướng Dương Văn Minh. Còn ông Minh có nhận lệnh ở trên nào không thì không biết. Sở dĩ tôi dám quả quyết ông Minh, là vì chính ông Minh sai cận vệ của ông ta là đại úy Nguyễn Văn Nhung cùng đi với tướng Mai Hữu Xuân, để “thi hành nhiệm vụ”(!). Và Nhung đã leo lên xe bọc thép trong đó có hai anh em Tổng Thống. Nhung là một tay giết người không gớm tay, y còn khắc dấu vào cán dao găm mỗi lần giết được một người. Ngay tối mồng hai y còn khoe “con dao lịch sử” của y với con của tướng Đôn cơ mà. Đó là theo chính lời của tướng Đôn thuật lại trong Việt Nam Nhân Chứng. Còn tướng Xuân thì khi “đi đón ông cụ” về và ông cụ đã chết rồi, đã tới trước Dương Văn Minh giơ tay làm dấu, miệng nói: “Mission accomplie” (Nhiệm vụ hoàn thành). Cứ theo những lời trên của tướng Đôn, thì không nghi ngờ gì người chủ trương và ra lệnh giết hai ông là tướng Big Minh.

            29.       Hỏi: Thời gian quấy rầy ông đã quá dài. Nhất là trong lúc ông còn bịnh nhiều. Xin cám ơn ông đã mất công trả lời những câu hỏi của chúng tôi. Và nếu có thể được xin ông cho một cảm tưởng chung về Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu.

            Đáp: Tôi cũng xin cám ơn ông đã tốn công đi từ xa đến để cho tôi được có dịp nói lên vài điều trong số những gì mình còn nhớ được về thời gian dài phục vụ Đất Nước bên cạnh hai nhân vật lịch sử mà tôi hằng kính mến. Cứ mỗi lần nhớ đến hai cụ, tôi đều ngậm ngùi xót xa. Nhất là đối với cụ Diệm. Ông quá ngay thẳng, quá quân tử, quá rộng lượng, lúc nào cũng nghĩ tới làm cho dân được ấm no hơn. Vậy mà người ta nỡ hãm hại ông. Không phải chỉ có những ngày giỗ hai ông tôi mới khóc.

            Cụ Vỹ dằn cơn xúc động bắt tay tôi khi tôi từ biệt ra về.

 

9

Di cư,
một kỷ niệm đắng cay
sau trở nên ngọt ngào.

 

 

 

T

rong hai tháng 7 và 8 năm 2004 nhiều đoàn thể, tổ chức ái hữu ở hải ngoại đua nhau họp mặt để nhắc lại những kỷ niệm về cuộc di cư vĩ đại nhất trong lịch sử Việt Nam cách nay đúng một nửa thế kỷ. Tôi không phải dân di cư. Nhưng gia đình tôi đã ở trong số hàng trăm ngàn gia đình bỏ hết tài sản, mồ mả ông cha để di cư vào Nam trong những tháng 7, 8, 9 và 10 năm 1954. Vì vậy nhớ lại cuộc di cư ấy cũng là nhớ lại những đắng cay chua xót cực nhọc vô vàn mà cha mẹ tôi, các em tôi đã phải trải qua, những kẻ ra đi, cũng như những kẻ còn ở lại trong sự chia ly đau buồn không hy vọng có ngày tái ngộ. Nhưng đồng thời cũng là nhớ lại những may mắn Trời ban, những sự tận tình giúp đỡ, an ủi của bè bạn, thân nhân, cũng như của nhân dân miền Nam. Cũng là nhớ lại những chương trình đề án của chính phủ Quốc Gia lúc ấy nhằm quyết liệt bảo đảm cho gần một triệu người đang lâm vào cảnh tha hương, không nhà, không cửa, không có công ăn việc làm có được nơi tạm trú, có được đồng tiền mua gạo sống qua những ngày đầu đặt chân trên miền đất xa lạ.

            Từ cái ngày đen tối không có tương lai, không chút hy vọng ấy cho tới nay, hầu như ký ức về những khó khăn cực nhọc buồn thương ban đầu đã dần dần tan biến để chỉ còn lại những hoài niệm êm đềm, vui tươi về những thành đạt của cá nhân cũng như của tập thể đồng bào di cư.

            Những người sống sót trong cuộc di cư lần thứ haí từ ngày 30 tháng tư năm 1975 và hiện đang sống an lành trong một chế độ tư do dân chủ và giầu mạnh nhất thế giới này còn đáng vui mừng hơn. Vui mừng vì năm 1954, cha ông chúng ta đã có một quyết định chọn lựa đúng: Thà bỏ tất cả để ra đi với hai bàn tay trắng, còn hơn ở lại miền Bắc để sống trong đói khổ và kìm kẹp. Cứ nhìn vào những thành tựu của đại đa số chúng ta với con cháu được học thành tài, có công ăn việc làm và mức sống vật chất cao, cuộc sống tinh thần tự do cởi mở đủ thấy rõ điều đó. Rồi hãy nhìn lại cái xã hội xã hội chủ nghĩa ở trong nước hiện nay, và nhất là những thập kỷ trước. Đầy rẫy chết chóc, đói khổ, không chút tự do. Nhửng tập quán, truyền thống dân tộc cao đẹp bị xóa bỏ. Mọi quyền làm người bị tước đoạt để dành lại cho một lớp người duy nhất hưởng thụ độc quyền là “giai cấp đặc quyền đặc lợi”, giai cấp tư bản đỏ. Càng nghĩ, càng so sánh, càng thấy chọn lựa ra đi của cha ông chúng ta là một chọn lựa khôn ngoan, đúng đắn.

            Trước hết, nguyên nhân chính của cuộc di cư là hiệp định đình chiến Genève ký kết giữa Pháp và Việt Minh. Nó quy định trong vòng 300 ngày người dân hai miền Nam Bắc có quyền lựa chọn nơi cư trú, hoặc ở lại hoặc đổi miền. Người ta đồn rằng chính phủ Ngô Đình Diệm muốn đưa vào Nam những người Công Giáo, đồng đạo với ông, là những người có tinh thần chống cộng triệt để, đáng tin cậy nhất, vì đã là nạn nhân đầu tiên của Việt Minh Cộng Sản. Mục đích để ông có một sự ủng hộ rộng lớn. Vì thế người của ông đã cho tung ra tin đồn là Đức Mẹ đã vào Nam để “dụ dỗ” đồng bào Công Giáo di cư. Tin đồn đó có lẽ có mục đích nói xấu cuộc di cư và hạ uy tín của ông Ngô Đình Diệm.

            Theo chỗ chúng tôi biết thì không thấy gia đình nào di cư vì tin đồn đó. Chính những người thân của tôi khẳng định, trước khi quyết định di cư, chẳng hề nghe ai nói Đức Mẹ đã vào Nam. Hầu hết những người ra đi đều đã có kinh nghiệm đau xót với Việt Minh Cộng Sản qua các cuộc đấu tố và cách phân biệt đối xử, và nhất là vì những chính sách tàn bạo của Việt Minh: Tiêu thổ kháng chiến, hợp tác hóa công, thương, nông nghiệp, một hình thức cướp của của nhân dân để làm giầu cho các cán bộ quản lý. Những vụ càn quét khủng bố dân làng vì bị tố cáo là Việt gian, gián điệp, trong khi thực chất là nhắm triệt hạ tôn giáo, cho nên bất cứ một dấu hiệu nào “khả nghi” đều bị liệt vào những tội danh Việt gian bán nước. Ví dụ một chiếc khăn tay trắng đưa lên lau mặt, một cái áo có màu cờ của Pháp cũng bị cho là những ám hiệu thông tin cho địch. Và còn biết bao điều bất công, đàn áp khác mà người dân phải chịu.

            Chính vì những trở ngại khó khăn nguy hiểm trong chuyến đi mà trước khi quyết định ra đi nhiều người đã phải suy nghĩ, đắn đo, trăn trở nhiều ngày đêm thao thức. Chứ không phải dễ dàng. Nếu Việt Minh không quá phân biệt đối xử thì đồng bào Công Giáo đã không ra đi nhiều đến thế. Tuy nói là nhiều, nhưng cũng chỉ một phần nhỏ tín đồ Công Giáo đã thành công trong việc ra đi.

            Mẹ tôi kể lại, bốn mẹ con phải đi bốn lần mới có một lần thành công. Đường đi dài gần hai trăm cây số mà cứ gần đến Hải Phòng thì lại phải dẫn nhau quay về, vì lần nào cũng bị Việt Minh ngăn cản, dụ dỗ, đe dọa. Lần thứ bốn, may có một cán bộ địa phương thương tình cấp giấy tờ cho đi hợp pháp mới tới nơi. Bà đã gặp lại người cán bộ này tại miền Nam chỉ ít ngày sau đó. Anh ta nói khi cấp giấy cho gia đình tôi, là trong bụng đã ôm mộng bỏ đảng ra đi rồi.

            Mẹ tôi kể rằng trong một thời gian dài từ khi vào Nam, năm nào cứ đến Tết thầy tôi cũng ủ rũ buồn bã. Có lúc bà bắt gặp ông khóc tức tưởi giữa đêm giao thừa. Hỏi thì ông bảo ông nhớ thương mẹ già, tức bà nội của chúng tôi, đã không cùng đi được, phải ở lại với cháu nội là em gái tôi với gia đình thông gia tại xã bên cạnh. Ông chủ gia đình này tức bố chồng cô em gái tôi sau 1954 đã bị Việt cộng quy kết là địa chủ và bị đem ra đấu tố đến chết, mọi tài sản của chìm của nổi tất cả đều bị tịch thu. Gia đình chỉ còn mấy cái chiếu rách để đem xuống nằm ở chuồng trâu, vì nhà trên, nhà dưới đều bị CS lấy dành cho “bần cố nông”, những kẻ có công tố cáo tội địa chủ trong Cải Cách Ruộng Đất, ở. Những tai biến này mãi sau 1975, gặp lại gia đình, em tôi mới kể lại cho biết. Nhưng dường như cha tôi đã linh cảm được những bất trắc và gian khổ mà mẹ, và con gái yêu của ông phải chịu ở miền Bắc, nên trong nhiều năm, cứ đến ngày mồng một Tết, thay vì vui Tết, thì ông lại ủ rũ và khóc thầm, cố giấu vợ con.

            Đó là nỗi chua xót đau đớn của cuộc di cư, mà gia đình tôi đã trải qua. Thiết nghĩ gia đình nào cũng có những tình huống tương tự. Giả như cha mẹ tôi không đưa được một nửa gia đình vào Nam trong dịp ấy, thì chắc chắn khi cuộc đấu tố đợt hai xảy ra sau 1954, chắc chắn các người đã bị đem ra đấu tố về tội có vài chục mẫu ruộng tư điền, và chắc chắn không thoát khỏi cảnh như ông bố chồng cô em tôi. Lúc ấy mấy người em tôi ở tuổi 13, 14 sẽ sống ra sao?

            Bỏ nhà ra đi là bỏ tất cả: nhà cửa, ruộng vườn, làng xóm, nơi còn vương biết bao kỷ niệm của nhiều đời người. Bỏ nhà ra đi là bỏ lại mồ mả cha ông, tổ tiên, từ bỏ cả trách nhiệm chăm sóc chúng. Nhất là, bỏ nhà ra đi mà không đem được mẹ già và những người con yêu quý nhất đời, đứa cháu ngoại còn thơ dại, thì làm sao mà không đứt ra từng khúc ruột. Nhưng bù lại khi đã vào được đến miền Nam, điều an ủi trước tiên là được gặp lại người con lớn, mà đã vì chiến cuộc xa cách mấy năm ròng. Khi cha mẹ tôi và các em tôi được đặt chân lên bến tầu Sài Gòn, tuy trong lòng còn lo lắng, nhớ thương trăm bề, nhưng cũng đã cảm thấy nhẹ nhõm phần nào, vì nỗi lo sợ bị đem ra đấu tố, bị giết không còn nữa.

            Vì lẽ đó, nhận dịp này tôi xin chân thành bày tỏ lòng tri ân với mọi ân nhân đã bằng cách này hay cách khác giúp đỡ gia đình tôi để có thể ra đi, và có thể sinh sống yên ổn sung túc trong miền Nam. Tôi cũng không thể nào không ghi lại ở đây lòng biết ơn của gia đình tôi đối với Thủ Tướng Ngô Đình Diệm và chính phủ của ông, trong đó có phủ Tổng Ủy Di Cư đã tiếp tế đầy đủ cho chúng tôi cũng như hàng trăm ngàn gia đình khác.

            Vào cuối tháng 7 tại Quận Cam đã diễn ra một cuộc hội ngộ của các cựu giáo sư và học sinh trường trung học Chu Văn An, cũng từng được gọi là trường Bưởi khi còn ở Hà Nội. Cuộc hội ngộ lớn lao kéo dài một tuần lễ, gồm 700 người từ khắp năm châu đổ về có mục đích kỷ niệm nửa thế kỷ trường này di cư vào Nam. Trong bữa tiệc một vị hiệu trưởng năm xưa đã đọc một diễn văn chí tình, trong đó ông thay mặt mọi người cám ơn nhân dân miền Nam, cám ơn các chính quyền VNCH về mọi điều ơn nghĩa tốt đẹp đã dành cho trường. Và nhất là ông đã cám ơn các bậc cha chú đã sáng suốt và can đảm chọn lựa ra đi, để ngày nay con cháu được sống trong một xã hội tự do, tiên tiến, có những cơ hội và phương tiện tiến thân, làm nên sự nghiệp lớn, không bị quản thúc, áp chế trong một xã hội đảo điên như ở trong nước.

            Tôi thiết nghĩ dịp này đáng lẽ cũng là dịp mọi đoàn thể tổ chức và cá nhân những gia đình di cư khác cũng nên nói lên lòng biết ơn tương tự. Và có một điều mà chúng tôi xin nói lên, mà cũng là điều mà vị hiệu trưởng kia không dám nói, vì một lý do nào đó. Đó là tôi vô cùng cám ơn chính phủ Quốc Gia, mà lúc ấy thủ tướng là ông Ngô Đình Diệm. Vì nếu không có ông Diệm thì cuộc di cư đã không diễn ra tốt đẹp như vậy, thậm chí có thể nói không ngoa, là nếu không có Ngô Đình Diệm thì đã không có cuộc di cư vĩ đại này. Gần một triệu người. Con số thật kinh khủng. Vấn đề chuyên chở, vấn đề tạm trú, vấn đề ăn ở, vấn đề vệ sinh, vấn đề an ninh… và biết bao vấn đề nan giải khác cần giải quyết thật nhanh chóng. Trong khi đó ông Diệm về nước chấp chánh trong một trạng huống bi đát cực độ đến tuyệt vọng. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Việt Cộng đã thôn tính được những vùng đất rộng rãi, đã làm cho lòng dân hoang mang khiếp sợ, không mấy người dám ra mặt ủng hộ ông Diệm. Người Mỹ thì chỉ ủng hộ ông một cách miễn cưỡng và có tính cách tạm thời. Họ chờ ông thất bại để con bài của họ ra thay thế, vì họ thấy ông khó tính, ương ngạnh và có tinh thần quốc gia “cực đoan”.

            Người Pháp thì tìm mọi cách phá, gây xáo trộn, để còn có cớ ở lại thêm, hòng kiếm chác thêm. Các giáo phái được Pháp ủng hộ thì có tinh thần thập nhị sứ quân. Nhất là lực lượng của Bảy Viễn ở Bình Xuyên được chính quốc trưởng Bảo Đại bao che, và Pháp vũ trang, lại nắm giữ ngành cảnh sát công an, ngang nhiên đương đầu với vị thủ tướng cô đơn. Quân đội thì nằm trong tay tướng Nguyễn Văn Hinh, một sĩ quan quốc tịch Pháp, do Pháp đào tạo và trung thành với Pháp, được Pháp che chở và điểu khiển chống lại Thủ Tướng Diệm… Ngân khố thì hầu như trống rỗng.

            Nói đến ngân khố trống rỗng, tôi cũng phải nhắc lại công ơn của chính phủ và nhân dân Hoa Kỳ đã tung tiền của và phương tiện ra trợ giúp chính phủ Ngô Đình Diệm trong việc tổ chức tiếp nhận một triệu người di cư.

 

Hình 3: Cảnh dân di cư cập bến Sài Gòn

            Sau này nhiều người đã nói trong cuộc di cư của gần một triệu người thì có đến 80% là Công Giáo. Vì ông Diệm là tín đồ Công Giáo, nên chỉ được người Công Giáo tin tưởng và ủng hộ, hoặc chính ông cũng chỉ tin dùng và nâng đỡ họ. Thực ra tuy số người Công Giáo chiếm đa số, nhưng còn biết bao tổ chức, đoàn thể hội đoàn các tôn giáo khác và cư dân các thành thị, hay các viên chức chính phủ Bảo Đại, trong số đó có rất ít người Công Giáo, cũng ra đi để nương nhờ vào chính phủ quốc gia, nhất là để tránh nạn CS.

            Không nói đến các đảng phái quốc gia từng là nạn nhân của Việt Minh, các viên chức chính phủ, gia đình các quân nhân, và một số các nhà trí thức, nhà văn, nhà báo tại các thành thị, nguyên số nhạc sĩ phục vụ tại đài Tiếng Nói Quân Đội lúc đầu cũng khá đông mà chẳng có ai là người Công Giáo. Một số tên còn được lưu lại trong trí nhớ: Ngọc Bích, Nguyễn Hiền, Đan Thọ, Văn Phụng, Xuân Lôi, Xuân Tiên vân vân. Và những nhạc sĩ danh tiếng khác tuy không là nhân viên của đài, nhưng cũng thường xuyên cộng tác, như Phạm Duy, Hoài Bắc (Phạm Đình Chương)… cũng đều là dân di cư và không phải Công Giáo. Mấy nhạc sĩ Công Giáo nổi tiếng như Lê Thương (với Hồn Vọng Phu), Hùng Lân (với Việt Nam Minh Châu Trời Đông) thì lúc ấy không có mặt ở đài này.

            Ban đầu, khi đài còn nằm trong tay loạn tướng Nguyễn Văn Hinh, thì thính giả đã phải nghe những lời lẽ, luận điệu đả kích chống đối vị thủ tướng mới. Nhưng khi ông tướng này đã thúc thủ, thì cũng người xướng ngôn viên ấy (Văn Thiệt) cùng với tập thể các nhạc sĩ và nhân viên “di cư” đã hết lời ca tụng và tỏ lòng biết ơn vị thủ tướng can đảm, liêm chính đã trở thành tổng thống sau một cuộc phổ thông đầu phiếu. Vị quản đốc mới của đài lúc ấy chính là tổng giám đốc đài Little Saigon Radio ngày nay.

            Dĩ nhiên ngoài giới nhạc sĩ, còn văn giới, báo giới, và giáo giới, ví dụ như các giáo sư trường đại học, và đặc biệt là các giáo sư trường trung học Chu Văn An nói trên. Tôi dám chắc (mặc dầu không có một sự kiểm kê nào), trong số 700 người tham dự đại hội kỷ niệm Chu Văn An di cư nửa thế kỷ nói trên không thể có được 30% là Công Giáo.

            Mới đây, nhân nhắc lại cuộc di cư vĩ đại năm 1954, một vị trung tá Phật tử, tâm sự với chúng tôi: “Tôi tuy là Phật tử và tuy có nhiều Phật tử không ưa ông Diệm vì nghĩ, có thể một cách sai lầm, ông ấy kỳ thị hay đàn áp Phật Giáo, nhưng tôi luôn luôn nhớ ơn ông Diệm, vì nếu không có ông ấy, không có cuộc di cư, thì cha tôi và ông anh cả tôi đã chết vào tay CS.” Thiết nghĩ còn rất nhiều vị Phật tử cũng muốn nói như thế, vì hầu hết những người không Công Giáo cố liều mạng chạy trốn CS theo làn sóng di cư đều là nạn nhân CS, hay ít nhất cũng khiếp sợ và ghê tởm CS. Và họ cũng không quên rằng dân di cư mang ơn chính phủ Ngô Đình Diệm.

            Tóm lại, kỷ niệm 50 năm di cư, cũng là một hình thức tỏ lòng nhớ ơn các ân nhân và nói lên thái độ chống lại chế độ cộng sản bạo tàn vậy.

 

10

Nước mắt
dập tắt lửa hận thù

 

 

 

T

rưa ngày 23 tháng 10 năm nay, 2005, tại hội trường của Đài Phát Thanh Sài Gòn Nhỏ, miền Nam California, hội Ái Hữu Người Việt Quốc Gia Hải Ngoại đã tổ chức một buổi hội thảo về ý nghĩa cuộc trưng cầu dân ý xảy ra đúng nửa thế kỷ trước (23-10-1955). Thuyết trình viên là giáo sư tiến sĩ Phạm Văn Lưu đến từ Úc Châu.

            Hội trưởng hội Ái Hữu, cụ Cao Xuân Vỹ, là một trong 3 vị chủ tọa đã khóc khi nhắc lại công đức của cố tổng thống Ngô Đình Diệm, người mà ông đã đi theo, cho đến giờ phút cuối cùng, sau khi rời bỏ hàng ngũ kháng chiến của Việt Minh Cộng Sản, “người mà tôi mến phục về lòng yêu nước nồng nàn và đời sống khổ hạnh hơn bất cứ nhà tu hành nào” (lời cụ Vỹ).  

            Đến phần phát biểu ý kiến, một thanh niên đứng lên giữa cử tọa chật ních hội trường cũng rưng rưng nước mắt nghẹn ngào đặt câu hỏi, đại ý: “Một người yêu nước đức độ như thế mà sao bây giờ chúng con mới được biết? Sao các bậc cha chú không cho chúng con biết sớm hơn?… Tại sao lại cứ để người ta nói xấu vị tổng thống sáng lập nền Cộng Hòa Việt Nam?”

            Sự xúc động tập thể lây lan trong hội trường khiến người viết nhớ lại câu cuối cùng kết thúc một chương sách về “Hoàng Minh Chính và chủ nghĩa xét lại” mà nhiều tờ báo ở hải ngoại đã đăng lại nhân dịp Hoàng Minh Chính tới Hoa Kỳ chữa bệnh. Trong số đó có nguyệt san Thông Luận On Line, (ghi lầm tác giả là Nguyễn Thanh Giang, thay vì Minh Võ) đã đưa câu cuối cùng của chương sách này lên làm trọng điểm và đặt lên đầu bài:

            “… Bao lâu cái xác ông (Hồ) còn được tôn thờ ở công trường Ba Đình, trong khi nhiều nhà yêu nuớc khác còn nằm co ro, nhục nhã ở những bãi tha ma hẻo lánh, thì nhân dân ta còn khổ.”

            Khi viết câu này, năm 1998, tôi nghĩ trước tiên đến hai ngôi mộ của “Gio-an Bao-ti-xi-ta HUYNH và Gia-cô-bê ĐỆ”, tức của Tổng Thống Ngô Đình Diệm và bào đệ là Cố Vấn Ngô Đình Nhu, nằm heo hút trong một góc của nghĩa trang Lái Thiêu.

            Ở trong nước, khi mà chế độ CS phi nhân còn đó, thì đành chịu vậy. Nhưng ở hải ngoại, trong bầu không khí dân chủ tự do của một nước được coi như tự do dân chủ nhất thế giới, tại sao những ngày kỷ niệm trọng đại này nhằm nói lên công lao to lớn của vị khai sáng ra nền Cộng Hòa Việt Nam, vị cứu tinh của dân tộc vào thời điểm đen tối nhất của lịch sử đã mở ra một con đường sáng cho một nửa nước lại chỉ được tổ chức tại một phòng hội nhỏ bé của một đài phát thanh, hay âm thầm tại một giáo đường mà không phải là tại một công viên rộng lớn nào đó? Tại sao không dùng các phương tiện truyền thông hiện đại, quảng bá cho nhiều người biết hơn để tham dự mà vinh danh con người Việt Nam đáng vinh danh nhất nửa thế kỷ vừa qua?

            Đó là câu hỏi mà, theo thiển ý, người thanh niên nghẹn ngào phát biểu không có đủ thì giờ (bị giới hạn trong 3 phút) để nêu lên một cách đầy đủ, và hẳn nhiều người trong hội trường cũng cùng ý nghĩ đó.

            Tôi đã từng nghe có người giải thích, vì sợ gây chia rẽ tôn giáo! Có lẽ những người này không muốn mất lòng hay đụng tới một vấn đề nhạy cảm của một số Phật tử đã từng đấu tranh chống đệ nhất Cộng Hòa, đưa tới sự lật đổ và sát hại Tổng Thống Ngô Đình Diệm.

            Đúng là vẫn còn nhiều người nghĩ ông Ngô Đình Diệm đàn áp hay kỳ thị Phật Giáo, mặc dù những người thân tín chung quanh Tổng Thống lúc sinh thời hầu hết đều là Phật tử rất ngoan đạo.

            Ngoài việc trọng dụng những Phật tử vào những chức vị thân tín chung quanh mình, Tổng Thống Ngô Đình Diệm còn cho xuất ngân sách trùng tu nhiều chùa chiền trong nước, xây thêm chùa mới khiến số lượng tăng gấp đôi so với thời trước. Việc này ông Mai Thọ Truyền biết rõ. Gần đây chúng tôi đã tiếp xúc với cựu nghị sĩ Lê Châu Lộc, nguyên tùy viên của Tổng Thống Diệm để hỏi về một số tin tức liên quan đến thái độ của tổng thống đối với Phật Giáo, thì được ông xác nhận, trước hết việc tổng thống kín đáo tặng Đức Đạt Lai Lạt Ma một số tiền lớn (15 ngàn Đô-la) là có thật. Số tiền này không phải là tiền riêng của Tổng Thống, cũng không phải trích từ quỹ xã hội, hay quỹ mật của phủ Tổng Thống, mà là tiền từ giải thưởng Magsaysay mà Tổng Thống được tặng. Sau này ông Huỳnh Văn Lang, tổng giám đốc viện Hối Đoái thời ấy cũng biết rõ, vì có chuyển ngân còn ghi lại. Rồi mới đây ông Quách Tòng Đức, đổng lý văn phòng phủ Tổng Thống, cũng xác nhận với luật sư Lâm Lễ Trinh.

            Việc thứ hai ông Lê Châu Lộc cho biết: Khi vụ Phật Giáo xảy ra và phe chống đối cáo buộc tổng thống kỳ thị Phật Giáo, 4 vị Phật tử xung quanh Tổng Thống là các ông Quách Tòng Đức (đổng lý), Nguyễn Thành Cung (tổng thư ký), Trần Sử (bí thư) và Võ Văn Hải (chánh văn phòng) đã cùng vào gặp Tổng Thống để xin phép cho công bố một số công việc và những món tiền mà Tổng Thống đã chỉ thị chi vào việc phát huy Phật Giáo. Nhưng Tổng Thống không chấp thuận. Ông bảo đó là bổn phận của một nguyên thủ quốc gia, không thể kể công… Lúc ấy ông Lê Châu Lộc cũng có mặt.

            Thế mà cho đến nay vẫn còn có người dám nói: Ông Diệm chỉ dùng người Công Giáo! Hay ông Diệm kỳ thị, đàn áp Phật Giáo!

            Tại sao lại có tình trạng ngược đời đó? Tại sao cho đến giờ phút này vẫn còn nhiều người hiểu lầm như thế?

            Theo tôi nghĩ, lý do thứ nhất là vì có một số trí thức ngoài Công Giáo vì một lý do nào đó muốn bôi nhọ cái đạo quốc tế, lớn nhất thế giới này. Cho nên chẳng những họ tìm mọi cách để bôi nhọ những nhân vật Công Giáo nổi tiếng, không chỉ có gia đình họ Ngô, mà cả những danh nhân văn hóa lừng lẫy như Paulus Huỳnh Tịnh Của, Petrus Trương Vĩnh Ký, Alexandre De Rhodes, Nguyễn Trường Tộ v.v…

            Lý do thứ hai là vì một số tướng lãnh và trí thức thuộc một đảng phái chính trị đã trót nhúng tay vào việc lật đổ và sát hại Tổng Thống Ngô Đình Diệm cố bằng mọi cách chạy tội với lịch sử.

            Ngày nay, khi mà những hồ sơ mật của bộ Ngoại Giao và Quốc Phòng Mỹ đã được giải mật, và đã có nhiều sử gia, nhà báo, cũng như những nhân vật quan trọng trong chính quyền Mỹ đều đã viết sách xác nhận là cuộc đảo chính năm 1963 là do Mỹ “tổ chức”, “phát động” (organized, set in motion), (McNamara, In Retro-spect, trang 55, và 52), hay “đỡ đầu” (sponsored), “khuyến khích” (encouraged)… Ngay Stanley Karnow, một sử gia thiên tả, thường ca tụng Hồ Chí Minh và chê ông Diệm là độc tài, quan liêu cũng không ngần ngại viết rằng cuộc đảo chính có sự đồng lõa của Mỹ (American complixity).[28]

            Như vậy những kẻ chủ mưu hay có dính líu vào cuộc đảo chính đó đã trở thành tay sai của Mỹ, và/hoặc phản quốc, vì đã mhận tiền của Mỹ lật đổ một chế độ hợp hiến hợp pháp do toàn dân bầu lên.

            (Chính tướng Trần Văn Đôn, một trong hai người VN cầm đầu cuộc đảo chính, trong cuốn Việt Nam Nhân Chứng đã nói đến số tiền (khoảng 42 ngàn Đô-La) mà các tướng đảo chính đã chia nhau. Nhưng vì có dư luận phân chia không đồng đều sao đó, nên đã bất đắc dĩ phải ghi vào sách để thanh minh… Và cũng chính tướng Đôn ghi rõ trên giấy trắng mực đen rằng sau đảo chính ông cùng với vài người nữa đã thay mặt nhóm đảo chính đến tòa đại sứ Mỹ để nhận lời khen của đại sứ Cabot Lodge.)

            Chính cái mặc cảm tội lỗi đó đã khiến những kẻ đó viết sách viết báo cố tìm mọi khuyết điểm của những người trong gia đình họ Ngô để bêu xấu hòng làm cho người đọc không chú ý đến tội ác tầy trời của mình.

            Như chúng ta đã biết, trong số những cuốn sách viết sớm nhất để chạy tội, có những cuốn Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi của Đỗ Mậu, Twenty Years and twenty days, (Hai Mươi Năm và Hai Mươi Ngày) của Nguyễn Cao Kỳ, Một Trời Tâm Sự của Nguyễn Chánh Thi, Việt Nam nhân chứngOur Endless War, (Cuộc chiến bất tận của chúng tôi) của Trần Văn Đôn. Tưởng cũng nên kể luôn cuốn In The Jaws of History, (Gọng Kìm Lịch Sử) của cựu đại sứ Bùi Diễm, mặc dù ông vốn là một nhà ngoại giao khéo léo, đã không chỉ trích nặng nề Tổng Thống Diệm bằng những kẻ khác. Nhưng dầu sao thì ai cũng biết ông đứng đằng sau, và có lúc sát gần bên cạnh những người chủ trương lật đổ Tổng Thống như Rufus Phillips (CIA) và tướng Lê Văn Kim chẳng hạn, và chính ông cũng không giấu giếm việc ông rất thân với những nhà báo chống đối ông Diệm một cách vô cùng quyết liệt, như Neil Sheehan, David Halberstam, và Malcolm Browne. Về sau còn có thêm những hồi ký của Vương Văn Đông và Trả Ta Sông Núi của Phạm Văn Liễu cũng là những kẻ cầm đầu cuộc đảo chính hụt năm 1960. Tôi chỉ kể sơ sơ 8 cuốn dầy cộm đó.

            Dĩ nhiên cũng có những cuốn sách khác không phải do những kẻ có mặc cảm tội lỗi viết để gián tiếp biện minh cho việc làm tội lỗi của họ. Nhưng phần đông nếu không muốn nói là hầu hết đều do họ đứng cùng phe với những kẻ chủ mưu và/hoặc đã từng ủng hộ cuộc đảo chính bằng cách này hay cách khác, hoặc bị những kẻ này mua chuộc hay thuyết phục.

            Trái lại về phía những người thân cận hay trung thành với nhà ái quốc Ngô Đình Diệm hầu hết thường có ý nghĩ: Sự thực vẫn là sự thực, cần gì phải thanh minh, cải chính. Rồi lịch sử sẽ phán xét công minh. Hơn nữa cũng không ít người nghĩ, mình ở trong cuộc, nói ra sợ người ta bảo không vô tư. Chi bằng cứ để lịch sử sau này phán xét.

            Chính vì thế mà cho đến nay nhiều bạn trẻ đã không được biết những sự thực cần được biết.

            Cũng may là gần đây đã có nhiều tác giả (tất cả đều là Phật tử) như các giáo sư Phạm Kim Vinh, Hoàng Ngọc Thành, Tôn Thất Thiện, ký giả Vĩnh Phúc, hay cựu đại tá Nguyễn Hữu Duệ, cựu thiếu tướng Hoàng Lạc… dõng dạc lên tiếng cải chính những luận điệu vu khống hay thiếu chính xác của những kẻ muốn chạy tội.

            Ở đây chúng tôi xin vắn tắt nêu lên một số chứng liệu và sự kiện lịch sử tự nó đủ cho thấy: bảo rằng ông Diệm đàn áp hay “bách hại” Phật Giáo là hoàn toàn sai.

            Chính tổng thống Mỹ Richard M. Nixon ngay đầu cuốn No More Vietnams đã khẳng định một cách dứt khoát: “Vấn đề đàn áp tôn giáo là hoàn toàn bịa đặt… Chính trị, chứ không phải tôn giáo đã ở trong đầu những kẻ núp đàng sau cuộc khủng hoảng” (ông có ý nói cuộc khủng hoảng Phật Giáo).”[29]

            Sở dĩ tổng thống Nixon xác quyết một cách mạnh mẽ như vậy vì ông biết rõ tham vọng và âm mưu của thượng tọa Thích Trí Quang, người đã được đại sứ Mỹ Cabot Lodge đưa vào ẩn núp trơng tòa đại sứ, khi lực lượng an ninh truy lùng ông tại chùa Xá Lợi, vì chính phủ tin tưởng rằng, nếu bắt giữ được người cầm đầu này thì mọi vấn đề rắc rối về cái gọi là “cuộc khủng hoảng Phật Giáo” sẽ được giải quyết ổn thỏa.

            Muốn biết một phần trong những tham vọng và âm mưu của vị hòa thượng này (mà có nhiều người cho là đặc công của CS, vì cho đến nay ông ta vẫn được CS trong nước để sống yên ổn, trong khi nhiều vị thượng tọa khác bị bắt bớ, giam tù hay giam lỏng), tưởng chỉ cần đọc lại vài trang sách của Nguyễn Cao Kỳ thượng dẫn.

            Trước hết xin tóm tắt là Thích Trí Quang chống ông Diệm viện lẽ ông đàn áp Phật Giáo và đã thành công. Nhưng khi ông Diệm đổ rồi ông vẫn tiếp tục gây rối, đem cả bàn thờ xuống đường để “tranh đấu”, chẳng những thế vẫn không chấm dứt những vụ tự thiêu… Mặc dù lúc ấy không còn ai tố cáo chính quyền đàn áp Phật Giáo nữa.

            Vì Cabot Lodge đã dùng Thích Trí Quang để lật được Tổng Thống Diệm rồi, nên ông ta thấy không cần dùng cây bài Thích Trí Quang nữa. Cho nên tướng Kỳ đã bắt được Thích Trí Quang một cách dễ dàng và cái gọi là vụ Phật Giáo thời hai ông Thiệu, Kỳ đã xẹp một cách nhanh chóng.

            Bây giờ xin hãy xem ông Kỳ mô tả cái tham vọng và âm mưu chính trị của Thích Trí Quang ra sao:

            “Thích Trí Quang tưởng Cabot Lodge còn giữ cảm tình với mình như cuối năm 1963 nên có lần ông ta đến ngỏ ý muốn lật tôi (Kỳ), thì bị Cabot Lodge hỏi: “Nhưng giả như thượng tọa lật được tuớng Kỳ rồi thượng tọa sẽ đặt ai làm thủ tướng thay ông ta?” Trí Quang ngồi im một lúc, suy nghĩ lung lắm. Rồi đưa ra một lời nhận xét khiến Cabot Lodge bàng hoàng: “Chúng tôi sẽ sẵn sàng đặt ông ta ngồi lại ghế thủ tướng.”[30]

            Đã rõ tham vọng của Thích Trí Quang là muốn làm tổng thống hay làm một ông vua không ngai vàng, tự ý muốn đặt ai làm thủ tướng thì đặt. Điều này hoàn toàn trái với những gì những kẻ thay Đỗ Mậu viết trong Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi:

            “Riêng đối với thượng tọa Trí Quang thì dù chiến tranh hay hòa bình, trước hết miền Nam VN phải được lãnh đạo bởi những nhà lãnh đạo do dân lựa chọn trong tự do và dân chủ.”[31] 

            Đỗ Mậu, hay những kẻ viết giúp ông ta, đã bảo hoàng hơn vua, cố tình bịa ra để bào chữa cho việc làm tội lỗi của Thích Trí Quang và những tướng lãnh ăn tiền của Mỹ để lật một tổng thống do toàn dân bầu lên, trong một không khí tự do dân chủ, đầy hào hứng lúc ấy. Chúng tôi nói “hào hứng” là dựa vào câu viết của chính tướng Kỳ, một tướng tham gia đảo chính. Ông Kỳ viết:

            “Cảm nghĩ của tôi về ông Diệm lúc ấy nhiều người biết. Trong năm 1954 tôi đã cùng với hàng ngàn người nồng nhiệt hy vọng rằng con người mộ đạo này sẽ chứng tỏ là vị cứu tinh của đất nước (Minh Võ nhấn mạnh). Cũng như mọi người trong gia đình tôi, tôi đã giúp cho cuộc bỏ phiếu đưa ông Diệm lên cầm quyền. Tôi còn nhớ sự thán phục lạ lùng mà người ta dành cho ông Diệm trong những ngày theo sau cuộc bầu cử ông…”[32] 

            Một người có tham vọng chính trị một cách ngông cuồng như Thích Trí Quang không thể là một nhà tu chân chính. Vậy thì cái vụ Phật Giáo kia cũng không thể là một vấn đề tôn giáo, mà đích thực nó là một vấn đề chính trị. Vấn đề bạo loạn.

            Không phải chỉ có Tổng Thống Nixon biết rõ điều đó. Ngay cả cựu hoàng Bảo Đại, người bị truất phế cũng biết và còn đi xa hơn nữa:

            “Tất cả đang tiến tới thì chính phủ (NĐD) gặp phải sự chống đối của các nhà sư. Ông Diệm và Nhu là người Công Giáo. Các nhà sư được cộng sản giật dây và mật vụ Mỹ tiếp tay, liền bắt đầu hành động. Chính quyền phải đối phó lại…[33] 

            Để nói thêm về nghi vấn có bàn tay CS hay tang chứng Mỹ nhúng tay vào, chúng tôi xin nêu ra đây một sự kiện mà chính sử gia thiên tả Stanley Karnow đã ghi lại trong cuốn Vietnam A History. Theo ông thì trong số 9 người bị giết trước đài phát thanh Huế trong một cuộc biểu tình do phe Thích Trí Quang tổ chức có 1 phụ nữ và 8 trẻ em.[34] Người ta cố tình không chú ý đến chi tiết đặc biệt này. Nhưng chúng tôi nghĩ đây là một chi tiết hết sức quan trọng. Cứ đặt câu hỏi: Tại sao phe chống đối của Thích Trí Quang lại xúi dục, và đem đi biểu tình nhiều đàn bà và trẻ em đến thế? Nếu không phải có dự mưu gây chết chóc cho trẻ em hầu dễ khuấy động quần chúng?

            Đó là chưa kể đến một tin khác đi kèm theo là một đại úy Scott nào đó đã dùng một chất nổ cực mạnh mà chỉ có CIA mới có để gây cái chết khủng khiếp đó. Tin này không phải chỉ được tiết lộ bởi bác sĩ Trần Kim Tuyến trong cuốn Làm Thế Nào Để Giết Một Tổng Thống được viết chung với Cao Thế Dung.

            Tóm lại, qua một vài sự việc cụ thể nêu trên, việc Mỹ tổ chức và phát động (“organized and set in motion”, hai chữ của chính McNamara, nguyên bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ thời ấy) cuộc đảo chính là có thật. Việc tướng lãnh nhận tiền của CIA Mỹ (qua trung gian trung tá Lou Conein) để thực hiện đảo chính cũng có thật. Việc thượng tọa Thích Trí Quang được đại sứ Mỹ cho trốn tại tòa đại sứ cũng có thật. Tham vọng chính trị của ông này cũng có thật. Ông là con cờ (hay tay sai?) của Cabot Lodge cũng có thật.

            Vậy cái gọi là cuộc khủng hoảng Phật Giáo chỉ là cái vỏ của một vấn đề chính trị. Chính phủ Ngô Đình Diệm không hề có chủ trương đàn áp hay bách hại Phật Giáo.

            Báo chí Mỹ và các tướng đảo chính đã xuyên tạc sự thật khi nói rằng vì ông Diệm đàn áp Phật Giáo nên nhân dân bất mãn ra tay lật đổ ông để làm cuộc cách mạng.

            Những người khóc trong hội trường đài phát thanh Sài Gòn Nhỏ đã khóc cho một người ái quốc bị hàm oan, khóc cho nhân dân Việt Nam ngày nay bị đói khổ, bị tước đoạt mọi quyền tự do, và các tôn giáo đang bị đàn áp bởi CS. Nếu ông Diệm không bị lật đổ và bị giết năm 1963, chắc chắn đất nước không đến nỗi này.

            Cũng trong buổi hội thảo nói trên, cựu trung tá Nguyễn Văn Minh, tác giả cuốn Dòng Họ Ngô Đình, Giấc Mơ Chưa Đạt, một trong 3 cuốn sách bán chạy nhất trong năm qua đã lên phát biểu ý kiến và nêu một sự việc cảm động. Ông thuật lại lời một độc giả ở Colorado đã gọi điện thoại nói với ông về cuốn sách, vừa nói vừa khóc. Độc giả ấy cho biết mình là Phật tử, và vì đọc những sách của những người ác cảm và chủ trương hay tán thành vụ đảo chính 1963 nên trước đây vẫn đinh ninh rằng ông Diệm thực sự đàn áp Phật Giáo. Bây giờ mới được biết sự thực.

            Chính người viết cũng được nhiều cú điện thoại tương tự. Phần nhiều độc giả đều nói khi nghe tin Tổng Thống bị giết, nhiều người dân quê miền Nam đã khóc.

 

            Để kết thúc bài này, chúng tôi cầu mong những dòng nước mắt của những đồng bào xót thương vị tổng thống yêu nước Ngô Đình Diệm sẽ tưới xuống những đốm lửa hận thù vô căn cứ còn rơi rớt lại ở đâu đó do những thông tin sai lạc tạo nên trong mấy thập niên qua để cho nhân dân ta sớm được sống an bình, no ấm trong tự do dân chủ.


11

Công Tử Hà Đông 
bị hiểu lầm

 

 

 

C

ó vài vị độc giả cao niên trong chỗ quen biết gọi điện thoại phàn nàn rằng nhà văn Hoàng Hải Thủy gián tiếp mạt sát Tổng Thống Ngô Đình Diệm một cách phi lý. Chả là trong số phát hành ngày 4-11-2005 tuần báo Sài Gòn Nhỏ có đăng bài của Công Tử Hà Đông, một bút hiệu quen thuộc của Hoàng Hải Thủy, nhan đề “BẠC LÀ DÂN…”, trong đó ông đã trích dẫn 10 bài thơ phỉ báng, lăng nhục Tổng Thống Diệm và cả dòng họ Ngô. Những bài thơ này choán hết một trang rưỡi tờ báo khổ lớn, nghĩa là gần hai phần ba bài báo. Đáng chú ý là trong số các tác giả có cả Thần Đăng từng là bút hiệu của nhà thơ nổi tiếng Đinh Hùng.

            “Ông ta nhằm mục đích gì khi trích đăng những bài thơ bỉ ổi đó?” các vị cao niên nói tướng lên trong điện thoại…

            Tôi đã tìm đọc số báo nói trên để biết sự thật. Đọc hết bài báo thì mới vỡ lẽ ra rằng nhà văn đa tài hiểu rộng biết nhiều, lại hay nói thẳng, nói thật, không sợ mất lòng, dù đối với bạn bè, đã bị hiểu lầm.

            Khi đọc báo, một số độc giả có thói quen chỉ đọc lướt qua, thấy có chữ tô đậm, viết nghiêng, hay những con số, những tên người, tên nơi đáng chú ý mới dừng lại đọc kỹ. Vậy thì những bài thơ, viết nghiêng, lại có tên Đinh Hùng… đã kéo chú ý, và có lẽ họ chỉ đọc kỹ những bài thơ đó.

            (Tưởng cũng nên mở một dấu ngoặc để thêm rằng chính nhà văn Uyên Thao và Minh Võ cũng đã bị hiểu lầm một cách tương tự. Trong Thư nhà xuất bản ở đầu cuốn Hồ Chí Minh, Nhận Định Tổng Hợp, Uyên Thao, người chủ trương Tủ sách Tiếng Quê Hương đã trưng dẫn những lời ca tụng HCM của William Duiker, David Halberstam và Hélène Tourmaire. Còn trong tác phẩm thì không biết bao nhiêu lần, Minh Võ đã trích dẫn những đoạn dài của những tác giả CS hay thiên cộng tâng bốc HCM lên đến tận mây xanh. Mục đích của chúng tôi là để chứng minh rằng ngày nay hãy còn có rất nhiều người không hiểu rõ về con người của HCM đến thế. Nhưng rồi sau đó chúng tôi đã chứng minh ngược lại. Nếu ai không đọc kỹ, đọc hết cuốn sách thì chắc chắn sẽ hiểu lầm, bảo Uyên Thao và Minh Võ “thiên Cộng”.)

            Nếu đọc cẩn thận từ đầu thì sẽ thấy ngay mục đích của Công Tử Hà Đông là chứng minh dân mình vô ơn đối với một vị tổng thống đáng ghi ơn, hay ít nhất cũng đáng thương cảm vì chẳng làm gì để đến nỗi bị giết, bị chửi oan như thế. (Nguyên văn CTHĐ: “Tôi đã đọc một số bài thơ ấy những năm xưa, năm nay đọc lại, tôi thấy bất nhẫn. “Bạc là dân”. Ông Ngô Đình Diệm đã làm gì để bị người ta giết, người ta chửi tàn nhẫn đến như thế!”)

            Cũng nên thêm rằng nhà văn đa tài của chúng ta đã không do dự tự tố cáo cả chính mình đã từng có lần “mạ lỵ những người Ngô Đình, nhiều lần tôi viết “Tổng Phệ”, nhiều lần tôi lấy làm khoái chí khi tôi viết chửi ông Ngô Đình Diệm”. Nhưng rồi nhớ lại, ông tự cười ông. 

            Đó là những năm 1964-1965, lúc ông Ngô Đình Diệm mới bị lật và bị giết. Nay 40 năm sau, sau khi đã chứng kiến những đổ vỡ sa sút, rối ren do cái chết của Đệ Nhất Cộng Hòa gây nên, và sau khi chứng kiến cảnh nước mất, nhà tan từ 1975, để ông phải vào tù, phải sống tha phương, “năm nay, năm 2005, tôi sống ở Hoa Kỳ, ngày 1, ngày 2 tháng 11 trở lại. Tôi nhớ và tôi thấm thía, thành ngữ của ông cha tôi: “Bạc là dân, bất nhân là lính!””

            Chữ BẠC ở đây không có nghĩa tiền bạc hay quý kim đâu. Không phải cứ có bạc là có dân, hay cứ có dân là có tiền bạc… Bạc cũng không phải là trắng. Dân trắng thì chẳng có nghĩa gì, trừ phi là trắng tay, như dân Việt ngày nay dưới sự cai trị của tập đoàn tham nhũng nó vơ vét hết mọi tài sản. Bạc cũng không phải là yếu (như bạc nhược). Dân nào là dân yếu? Hay dân Việt Nam hiện nay rất yếu, vì không đủ mạnh để lật, để hất cái chế độ CS đại ác kia đi, hay vì dân bị đàn áp, đánh đập quá nên hết sì quách?

 

Hình 4: Tôn Thất Đính, một trong những loạn tướng.


Tôn Thất Đính, một trong những loạn tướng. 

            Bạc ở đây chính là xử tệ, vô ơn đối với người mình hàm ân. Tệ bạc. Bội bạc. Phụ bạc. Bạc bẽo. Bạc tình. “Muốn mù trời chẳng cho mù hẳn. Giương mắt trông chi buổi bạc tình.” (Tú Xương) Hay “Trách người quân tử bạc tình. Chơi hoa rồi lại bẻ cành bán rao” (Ca dao). 

            Bạc là dân… mà Công Tử Hà Đông chọn làm tựa cho bài viết rất thâm thúy của ông là một nửa của ngạn ngữ Việt Nam có tính triết lý rất sâu sắc, phản ánh một nhân sinh quan về thế thái nhân tình. Nửa sau là: Bất nhân là lính. Bạc là dân, bất nhân là lính. Xin quý vị quân nhân đừng buồn, giận. Hãy tha thứ cho triết lý dân gian. Và xin những quân nhân cấp dưới hiểu chữ lính của Công Tử Hà Đông ở đây chỉ là một nhúm những người lính mang sao trên cầu vai, như các ông Dương Văn Minh, Mai Hữu Xuân, Tôn Thất Đính, Trần Thiện Khiêm… đã lật và giết ông Diệm.

            Toàn bài viết của Công Tử Hà Đông nhằm chứng minh cái triết lý dân gian ấy. Và như vậy ông đã gián tiếp công nhận ông Ngô Đình Diệm là người mà đáng lẽ dân Việt Nam phải nhớ ơn, như bài ca của Ngọc Bích, lời của Thanh Nam mà ông đã trân trọng nhắc lại. Có điều ông không nói rõ là bài ca “suy tôn” đó được sáng tác trong thời gian ông Diệm mới về nước, vói tư cách là thủ tướng, cho nên ban đầu nguyên văn nó là “Toàn Dân VN biết ơn Ngô Thủ Tướng. Hai năm sau mới đổi thành “Ngô Tổng Thống”. Ông Vũ Quang Ninh tổng giám đốc Little Sài Gòn Radio, lúc ấy cùng làm việc với nhạc sĩ Ngọc Bích và nhà thơ Thanh Nam, có thể minh xác điều này.[35] Và câu “Ai bao năm từng gót nơi quê người” sau đã được sửa lại là “Ai bao năm từng in gót nơi quê người”

            Chính những lời viết ở đầu bài đã cho thấy rõ tâm trạng và thái độ của tác giả đối với Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Lúc ấy ông còn quá trẻ, chỉ lo làm ăn, lo sáng tác và phóng tác, dịch thuật (rất hăng và rất thành công) để phục vụ văn học nghệ thuật, chẳng màng đến “chính chị chính em”. Như ông đã ghi rõ:

            “Tôi 30 tuổi đang xoan năm 1963 (năm ông Diệm bị giết – MV chú thích). Cuộc sống của tôi lên đến đỉnh cao phong độ nhất trong những năm từ 1958 đến 1963 (…). Tôi trẻ, tôi ăn chơi vi vút trong thủ đô yên bình (Minh Võ nhấn mạnh 2 chữ yên bình). Đời tôi lên đến đỉnh cao phong độ theo quyền lực của tổng thống Ngô Đình Diệm… Ông lên tôi lên theo ông. Ông xuống tôi xuống theo ông.”

            Vì thế mà ngày nay (2005), đọc lại những bài thơ phỉ báng Tổng Thống Diệm (viết vào khoảng thời gian từ 1967-1970), rồi lại nhớ lại cái thời thanh bình trong chế độ đệ nhất Cộng Hòa, từ 1956-1963, nhớ lại những lần đứng trong các rạp hát nghe bài Suy Tôn Ngô Tổng Thống, “tôi thấy ngậm ngùi”. Không ngậm ngùi sao được khi thấy cảnh bể dâu như thế. Người đang bị sỉ vả, mạt sát, lăng nhục chính là người năm xưa đã từng là ân nhân của một phần lớn nhân dân.

            Có lẽ Công Tử Hà Đông nhớ đến cuộc di cư vĩ đại mà nếu không có ông Diệm, có lẽ nó không vĩ đại đến thế, hay ít nhất cũng không hoàn tất một cách tốt đẹp như thế. Nhờ có cuộc di cư đó mà cùng với hàng ngàn văn nghệ sĩ (trong đó không phải chỉ có những Ngọc Bích, Thanh Nam, Nguyễn Hiền, Phạm Duy, Xuân Tiên, Xuân Lôi, Đan Thọ, Thẩm Oánh, Hùng Lân hay những Vũ Hoàng Chương, Mai Thảo, Doãn Quốc Sỹ v.v… mà cũng có cả Đinh Hùng, Vũ Bằng nữa) ông đã có thể thoát nạn bị đấu tố, hãm hại của CS, có thể được tiếp tục tự do sáng tác, phóng tác trong một miền đất Tự Do. Không giống như những Hữu Loan, Nguyễn Bính, Phùng Quán, Phan Khôi v.v… không di cư được vào Nam.

            Có lẽ ông nhớ đến công cuộc thống nhất các lực lượng vũ trang miền Nam, đến cuộc trưng cầu dân ý truất phế một ông vua ngồi ở “mẫu quốc” mà trị nước, khiến cho trong thời ông độc lập chỉ có trên giấy tờ, khiến cho chính nghĩa dân tộc nghiêng về phía CS.

            Có lẽ ông nhớ đến ngày đoàn quân Pháp rút khỏi Việt Nam, đến buổi lễ hạ quốc kỳ Pháp, thượng quốc kỳ Việt Nam trước dinh Norodom, dưới sự hiện diện của Tổng Thống Diệm (chứng kiến sự chiến thắng) và của tướng Paul Ely của Pháp (chứng kiền sự thất bại) để từ đó dinh này được mệnh danh là DINH ĐỘC LẬP, mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam, khiến cũng từ đó những tên đường phố mang tên ngoại quốc được mang tên các nhà ái quốc Việt Nam, và cũng từ đó miền Nam được sống trong cảnh thanh bình, với niềm tự hào là từ đó những người bên này sông Bến Hải không còn mang mặc cảm Việt gian hay bị đối phương gán cho hai chữ phản quốc như trong thời còn sự hiện diện đông đảo quân Pháp. Vân vân…

            Chính những hoài niệm ấy khiến ông ngậm ngùi và nghĩ tới cái triết lý dân gian BẠC LÀ DÂN… Ngậm ngùi, vì thương cho một người, một kiếp người…

            Hy vọng mấy hàng trên đã đánh tan sự hiểu lầm của một số độc giả vốn mến tài Công Tử Hà Đông, nhưng đã không đọc kỹ bài của ông.

 

 

 

 

 

 

 

Phần IV

 


12

Chiến thắng bỏ lỡ

 

 

 

T

ừ trước tới giờ phần đông ký giả và sử gia Mỹ đều cho rằng Hoa Kỳ đã lầm khi ủng hộ miền Nam Việt Nam chống lại Cộng Sản miền Bắc. Họ ca ngợi Hồ Chí Minh là nhà ái quốc, có tài trí hơn người và được lòng dân. Họ coi các nhà lãnh đạo miền Nam, kể cả ông Ngô Đình Diệm, đều bất tài vô tướng và là tay sai thực dân đế quốc. Quan điểm lịch sử đó được mệnh danh là “chính thống” (!) (tạm dịch chữ  “Ortho-dox” của tác giả Mark Moyar)

            Nhưng gần đây một số sử gia Mỹ đã bắt đầu xét lại quan điểm đó. Trong số này có giáo sư tiến sĩ sử học Mark Moyar. Tiến sĩ Mark Moyar đậu cử nhân (hạng tối ưu với lời khen của ban giám khảo) về môn sử tại đại học Havard danh tiếng nhất của Mỹ. Sau đó đậu tiến sĩ sử học tại đại học Cambridge. Ông từng giảng dạy tại đại học Cambridge, đại học Tiểu Bang Ohio, đại học A&M Texas, và đại học Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ ở Quantino, Virginia..

            Năm 2006 cơ sở Báo Chí Đại Học Cambridge đã xuất bản cuốn sách 512 trang khổ lớn của ông nhan đề Triumph Forsaken. Đây là tập I của bộ sách 2 tập về cuộc chiến Việt Nam. Theo tác giả, cuộc chiến này đáng lẽ đã kết thúc bằng một chiến thắng oanh liệt, mà lại trở thành một chiến bại nhục nhã. Trong cuốn sách này, tác giả đã rà xét lại tất cả mọi dữ kiện, đối chiếu nhiều tài liệu vô số kể của nhiều nguồn thuộc mọi phía, trong đó có những tài liệu mới được giải mật của Mỹ và tài liệu Cộng Sản (Liên Xô cũ, Trung Quốc, và Việt Nam), để đi đến một kết luận có cơ sở vững vàng.

            Cuối sách không có phần thư mục như phần lớn các sách biên khảo. Nhưng gần 2000 chú thích ghi chi tiết trong 85 trang sách đã cho thấy hàng trăm tác phẩm và tài liệu được tham khảo và dẫn chứng một cách tỉ mỉ để chứng minh lập luận “xét lại” của tác giả. Ví dụ chỉ nguyên một chương 16 đã có tới 176 chú thích trưng dẫn hàng trăm tác phẩm, hay chỉ 3 trang đầu của bài tựa thôi đã có tới 19 chú thích mà chi tiết choán hẳn 3 trang, Cũng trong lời tựa này, nguyên một chú thích số 2 đã trưng dẫn gần 100 tác phẩm

            Tập một này có 17 chương, trong đó có 10 chương về chính quyền Ngô Đình Diệm.

            Đọc kỹ lời tựa và chương đầu, ta sẽ thấy đại cương về lập luận của tác giả..

            Nhà xuất bản trích dẫn lời phê bình và đánh giá của 6 tác giả và giáo sư sử học về tác phẩm của Mark Moyar. Sau đây là ý kiến của Giáo sư sử học Thomas Alan Schwartz:

            “Triumph forsaken là một cuốn sách đặc sắc. Công trình (biên khảo) của Mark Moyar là sự thách đố mạnh mẽ nhất đối với sự giải thích chính thống về nguồn gốc việc Mỹ tham chiến ở Việt Nam. Bằng cái nhìn mới mẻ vào những nguồn tài liệu gốc, cũng như tìm hiểu, khai thác những tư liệu mới từ các văn khố Mỹ cũng như Cộng Sản, Moyar đã tạo nên một lối giải thích khác về cội nguồn của sự dấn thân (tham chiến) của Hoa Kỳ. Tác phẩm của Moyar thúc đẩy các sử gia phải mở lại cuộc tranh luận về ý nghĩa cuộc chiến tranh Việt Nam.”

            Sau đây là nhan đề của 17 chương sách trong tập I:

         1. Di sản

         2. Hai nước Việt Nam: Từ tháng 7 năm 1954 đến tháng 12 năm 1955

         3. Sống chung hòa bình: Từ 1956 đến 1959

         4. Cuộc nổi dậy: 1960

         5. Cam kết nhập cuộc: 1961

         6. Sự trẻ trung hóa: Từ tháng 1 đến tháng 6 năm 1962

         7. Tấn công: Từ tháng 7 đến tháng 12 năm 1962

         8. Trận Ấp Bắc; Tháng 1 năm 1963

         9. Ông Diệm gặp gian nan: Từ tháng 2 đến tháng 7 năm 1963

       10. Sự phản bội: Tháng 8 năm 1963

       11. Tự hủy: Từ tháng 9 đến ngày 2 tháng 11 năm 1963

       12. Trở lại tình trạng “Thập Nhị Sứ Quân”: Từ 3 tháng 11 đến tháng 12 năm 1963.

       13. Tự chế: Từ tháng 1 đến tháng 7 năm 1964

       14. Những tín hiệu: Từ tháng 8 đến tháng 10 năm 1964

       15. Xâm nhập: Từ tháng 11 đến tháng 12 năm 1964

       16. Phần thưởng chiến thắng: Từ tháng 1 đến tháng 5 năm 1965

       17. Quyết định: Từ tháng 6 đến tháng 7 năm 1965.

Lời tựa.

            Sau khi nhấn mạnh sự cần thiết phải nghiên cứu phân tách kỹ những nguồn tài liệu gốc càng ngày càng được phát hiện ra về mọi mặt của cuộc chiến, từ quân sự, chính trị, ngoại giao, do đó tác phẩm phải gồm 2 tập, thay vì một tập như dự tính ban đầu, tác giả trình bày thực trạng lịch sử Hoa Kỳ do hai xu hướng “chính thống” và “xét lại”. Quan điểm “chính thống” có vẻ lấn át quan điểm xét lại. Thậm chí trong giới khoa bảng, người ta cho rằng phe xét lại không đáng gọi là sử gia, chỉ là những nhà “ý thức hệ” (ideologues).

            Theo quan điểm “chính thống” thì dân Việt vốn thù dân Tầu, và thường đánh thắng quân Tầu. Vì vậy nếu đừng xua đuổi Hồ Chí Minh, thì ông ta đã có thể trở thành một Ti-tô của Việt Nam, chứ không đi theo Tầu Cộng, và Liên Xô.

            Tác giả đã ghi rằng nghiên cứu kỹ lịch sử Việt Nam thì sẽ thấy, các cuộc chiến tranh xảy ra phần lớn giữa người Việt với nhau, và giữa người Việt với những sắc dân khác, như Chàm, Khmer hay Mông Cổ… chứ không phải giữa người Việt với người Tầu. Chỉ trừ một vài trường hợp cá biệt.

            Từ đó ông cho rằng Hồ Chí Minh nếu có ghét Tầu là ghét Tầu Quốc Dân, như phe Tưởng Giới Thạch, chứ không bao giờ ghét Tầu Cộng của Mao Trạch Đông. Trái lại sẵn sàng rước Tầu Cộng vào để đánh người Việt yêu nước. Ông viết:

            “Hồ thường tỏ lòng kính cẩn với quan thầy hơn đối thủ của ông ta ở miền Nam là Ngô Đình Diệm, người đã thà chết hơn là làm theo yêu cầu của đồng minh Hoa Kỳ của ông ta. Hồ là tín đồ nhiệt thành của Mác và Lê-nin, dấn thân sâu đậm vào chủ nghĩa Quốc Tế Cộng Sản, cho nên không thể hy sinh tình liên đới Cộng Sản cho quyền lợi “hẹp hòi” của Việt Nam. Do đó, trái với những suy diễn được nhiều người chia sẻ, ông ta sẽ chẳng bao giờ lại chống người láng giềng Trung Cộng, hay bất cứ nước bạn Cộng Sản nào khác, nếu Hoa Kỳ cho phép ông ta thống nhất Việt Nam. Ông ta không bao giờ để Hoa Kỳ biến nước Việt Nam thành một Nam Tư của châu Á.”

            Về lãnh tụ miền Nam, tác giả viết:

            “Tổng Thống Ngô Đình Diệm của miền Nam, không ngừng bị các sử gia phe “chính thống” mô tả như một kẻ đần độn, tên phản động, một bạo chúa. Nhưng thực ra ông là một lãnh tụ rất khôn ngoan, uyên bác và đắc lực. Là một người hiến thân cho hạnh phúc của dân tộc mình, ông “dùng uy tín cá nhân để trị nước gần như một nhà độc tài” (12 từ trong ngoặc kép của người viết để tạm dịch từ authoritarian của tác giả) vì ông cho rằng chế độ dân chủ kiểu Tây phương không thích hợp với một đất nước đang bị phân tán và có một nền văn hóa độc đoán. Những biến cố xảy ra sau khi ông bị giết đã chứng tỏ niềm tin đó là đúng.” (…)

            Sau khi nêu đích danh Trung Tá John Paul Vann, hai nhà báo trẻ David Halberstam và Neil Sheehan và đại sứ Cabot Lodge, kết tội họ đã loan tin thất thiệt, thiếu lương thiện và đánh lừa thượng cấp để cố hạ uy tín của Tổng Thống Diệm, vu khống là chính quyền của ông bất lực trong việc giữ an ninh, tác giả viết về cuộc đảo chính 1-11-1963:

            “Cho đến nay, đã rõ cuộc đảo chính tháng 11 năm 1963 là một lỗi lầm tệ hại nhất của người Mỹ. Trái hẳn với những lời quả đoán sau đó của những kẻ cổ võ cho cuộc đảo chính, rằng nỗ lực chiến tranh của Nam Việt đã bước vào thời kỳ suy thoái trong những tháng cuối cùng của chế độ Ngô Đình Diệm. Các nguồn tin từ phía Bắc Việt, cũng như từ phía Hoa Kỳ đã cung cấp bằng chứng cho thấy cuộc chiến lúc ấy đang tiến hành một cách thỏa đáng, thuận lợi.”

            Về tình trạng rối loạn và sự kém cỏi của các chính quyền hậu đảo chính, tác giả cho rằng chưa mấy người hiểu rõ nguyên nhân. Ông viết:

            “Hậu quả của sự điều hành kém cỏi của chính quyền miền Nam từ sau khi ông Diệm chết cho đến năm 1965 thì hầu như ngày nay ai cũng đã thấy. Nhưng về những nguyên nhân của nó thì chưa mấy người hiểu. Theo một cách giải thích “chuẩn” thì chính quyền Sài Gòn thất bại vì những nhà lãnh đạo Việt Nam và những cố vấn Mỹ đã chọn lầm phương pháp để đánh địch. Tuy nhiên thực ra, vấn đề không nằm ở khái niệm mà ở cách thi hành. Một sự giải thích tiến bộ hơn, gần trọng điểm hơn, nhưng vẫn chỉ đúng một phần, đó là miền Nam lúc ấy bị chao đảo, loạng choạng vì giới thượng lưu cầm quyền đã mất những nhà lãnh đạo kiên cường. Nhiều cá nhân giữ những địa vị trong chính quyền trong thời hậu Diệm, đích thực, thiếu các đức tính cần thiết của một nhà lãnh đạo, và chẳng ai có tài bằng Ngô Đình Diệm. Nhưng tầm cỡ của tập thể giới lãnh đạo nói chung không phải là vấn đề then chốt. Vấn đề quan trọng, thực ra chính là sự loại trừ một số người trong giới thượng lưu ra khỏi chính phủ và sự thao túng của phong trào Phật Giáo trong việc vận dụng các nhà lãnh đạo chính phủ. Kể từ tháng 11 năm 1963 về sau những lãnh tụ hàng đầu ở Sài Gòn không ngừng lặp đi lặp lại việc loại trừ những người có tài đáng kể, hoặc vì những người này đã trung thành với ông Diệm, hoặc vì những lãnh tụ đó bị áp lực từ nhóm Phật Giáo tranh đấu…”

            Vài trích đoạn trên đây của Lời Tựa đã tóm tắt quan điểm “xét lại” của tác giả về những sự kiện lịch sử liên quan đến ông Hồ Chí Minh, ông Ngô Đình Diệm và chính tình miền Nam Việt Nam từ 1945 đến 1965.

            Hơn 400 trang sách kế tiếp đã được tác giả dùng để trưng dẫn những tài liệu chính xác để chứng minh quan điểm trên là đúng. Vì là những tài liệu phức tạp, mới có, cũ có từ nhiều nguồn khác nhau nhiều khi trái ngược mâu thuẫn nhau. Nên không thể nào thu gọn trong phạm vi vài trang sách. Vì vậy chúng tôi xin để độc giả tìm đọc trong chính tác phẩm Triumph Forsaken tập I. Sau đây chỉ xin tóm tắt vài ý chính và trích dịch một số đoạn đáng chú ý của mấy chương đầu của tập I, vì tập II chưa xuất bản.

Chương 1: Di Sản

            Mở đầu là quang cảnh tấp nập tưng bừng tại công trường Puginier, Hà Nội (nay là quảng trường Ba Đình) ngày ra đời của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.

            “Theo lời mời của ông Hồ, vài sĩ quan tình báo OSS Mỹ đứng gần khán đài. Hai chiếc máy bay chiến đấu Lightning P-38 tình cờ bay trên đám đông trong buổi lễ. Cả hai điều đó đã tạo nên một cảm tưởng sai lầm rằng chính phủ Hoa Kỳ ủng hộ Hồ Chí Minh.”

            Trong lời tuyên bố độc lập mở đầu với lời lẽ lấy từ bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Mỹ và Pháp, ông Hồ đã kịch liệt đả kích thực dân và xác quyết rằng chính phủ của ông đại diện toàn thể nhân dân Việt Nam.

            “Ông ta không nói gì đến ý thức hệ chính trị, mà chỉ bàn về mục đích của ông là thành lập một nước Việt Nam độc lập.”

            Nhiều người đã cho rằng bản tuyên ngôn này chứng tỏ chủ nghĩa quốc gia chứ không phải chủ nghĩa Quốc Tế Cộng Sản đã là động lực cách mạng của ông Hồ. Vì vậy nếu như Mỹ đừng ủng hộ Pháp thực dân, và đừng dựng nên những chính phủ tay sai ở miền Nam chống lại ông Hồ thì Việt Nam và Hoa Kỳ đã có thề là đồng minh, và ông Hồ đã quay lại chống Trung Cộng.

            “Nếu người Mỹ hiểu lịch sử Việt Nam, thì toàn bộ thảm kịch đã có thể tránh được.”    (…)

            “Cái lối lý luận trên đã sai lầm một cách chết người.”

            “Vì lịch sử Việt Nam và lịch sử của ông Hồ thực sự đã hỗ trợ cho những kết luận ngược hẳn.”

            Tác giả đã ôn lại lịch sử Việt Nam qua 7 trang sách để chứng minh.

            Sau đó tác giả viết:

            “Chỉ có một bằng chứng duy nhất có thể dùng để biện luận rằng ông Hồ không ưa người Tầu và những ngoại nhân khác là câu ông ta nói để bào chữa cho việc để quân Pháp vào Bắc Việt. (Theo Paul Mus, MV.) Ông Hồ đã nói: “Thà ngửi cứt Pháp một lúc còn hơn là phải ăn cứt Tầu suốt đời.”

            Nhưng rồi tác giả lại viết:

            “Chút bằng chứng nhỏ nhoi đó rất yếu. Vì khi ông Hồ nói câu đó, theo lời thuật lại (của Paul Mus), thì phần lớn nước Tầu đang ở dưới quyền cai trị của những người Trung Hoa theo chủ nghĩa Dân Tộc hăng hái chống cộng, và là những người đang tích cực ủng hộ những người Việt quốc gia chống cộng, là đối thủ hùng mạnh nhất của Việt Cộng.”

            Tác giả thuật lại việc ông Hồ nhanh chóng chớp thời cơ sau khi Nhật đầu hàng, đem quân cướp chính quyền trong khi các toán quân của các đảng Quốc Gia còn đang tiến chậm chạp từ Trung Quốc về. Ông cũng nhấn mạnh đến việc quân của Hồ đã dùng vũ khí của Trung Hoa Dân Quốc và của Mỹ.

            Và yếu tố quan trọng khiến ông Hồ thành công bước đầu là “cá tính” của ông ta được người dân tin phục. Người dân Việt chú ý đến lãnh tụ hơn là đảng và chủ thuyết của lãnh tụ.

            Tác giả nêu lên sự kiện Hồ Chí Minh cố thuyết phục những người Mỹ mà ông gặp rằng mình không phải Cộng Sản, mà chỉ là người yêu nước, muốn đem lại độc lập cho đất nước. Nhiều sĩ quan OSS đã tin theo và muốn ủng hộ Việt Minh, trong đó có cả đại tá Archimedes Patti (lúc ấy là đại úy, MV). Nhưng tác giả đã trưng dẫn bức điện của chính Patti gửi về Hoa Thịnh Đốn ngày 29-8-45 viết rằng, “những phần tử đỏ đang lãnh đạo chế độ Việt Minh đi trệch đường, và rằng những nhà lãnh đạo chế độ thường nói tốt về chế độ tự do dân chủ, nhưng trong thực tế họ đang chuẩn bị những hành động phi tự do, phi dân chủ.”

            Sau đó tác giả đã nêu lên việc Việt Minh giết những người yêu nước như Nguyễn Thế Nghiệp, Nguyễn Ngọc Sơn (2 lãnh tụ VNQDĐ) và Bùi Quang Chiêu (Đảng Lập Hiến), Hồ Văn Ngà, Nguyễn Văn Sâm, Trương Đình Thi, Trương Tử Anh (lãnh tụ Đại Việt)…

            Về chiến thắng Điện Biên của CS, tác giả đã trưng dẫn Janos Radvanyi (Ảo tưởng và thực tại, South Bend: Gateway, 1978) cho biết chính Võ Nguyên Giáp đã tiết lộ với tác giả (Janos):

            “Trận Điện Biên Phủ là cố gắng tuyệt vọng cuối cùng của Quân Đội Việt Minh. Lực lượng chiến đấu của nó sắp sửa kiệt quệ hoàn toàn. Nguồn tiếp tế gạo đã cạn kiệt. Dân chúng đã lãnh đạm thờ ơ đến độ thật là khó có thể lấy thêm lính. Nhiều năm chiến đấu trong rừng rậm đã làm cho tinh thần chiến đấu của các đơn vị sa sút tột cùng.”

            Sau một số bằng chứng khác, Mark Moyar kết luận: “Tóm lại cả hai phía đều đã có cơ may chiến thắng trận quyết định tại Điện Biên Phủ.” (trang 26)

Chương 2: Hai nước Việt Nam
(từ tháng 7-1954 đến tháng 12-1955)

            Sau khi mở đầu bằng hiệp định Genève và việc thành lập Tổ Chức Hiệp Ước Liên Phòng Đông Nam Á (SEATO), tác giả nhắc đến nhu cầu ủng hộ của Mỹ đối với những lãnh tụ các quốc gia bị trị đang bị Cộng Sản đe dọa. Và ông viết:

            “Nam Việt Nam thực sự đang có một người yêu nước cương nghị có thể trở thành nền tảng cho một quốc gia chống cộng, dù rằng vào mùa hè năm 1954 nhiều người Mỹ không tin hẳn như vậy.”

            Rồi ông để nhiều trang nói về con người và hoạt động của nhân vật này…

            “Ngô Đình Diệm đã rời Việt Nam vào năm 1950, sau khi bị Việt Minh tuyên án tử hình, vì đã phát triển một tổ chức yêu nước mới. Sang Nhật, ông gặp Westley Fishel, giáo sư chính trị học tại đại học California, lúc ấy đang làm việc cho CIA. Theo lời khuyên của Fishel, Diệm sang Mỹ năm 1951 thuyết trình tại các trường cao đẳng và tìm sự ủng hộ của các viên chức chính quyền. Diệm được sự nâng đỡ của một số người Mỹ có địa vị cao, kể cả thẩm phán Tối Cao Pháp Viện William Douglas, hồng y Francis Spellman, dân biểu tiểu bang Montana là Mike Mansfield, và dân biểu John F. Kennedy thuộc tiểu bang Massachusetts. Tháng 6 năm 1954, vào giữa cuộc thương thuyết ở Genève, người Pháp tuyệt vọng, đã trao trả độc lập hoàn toàn cho chính quyền Bảo Đại, và ông này đã yêu cầu Diệm nhận chức thủ tướng.”

            “Quyết định của Bảo Đại không do áp lực của Mỹ, như có người suy đoán, mà là vì nhiều lãnh tụ đảng phái quốc gia Việt Nam ủng hộ Diệm. Bảo Đại nói với Diệm: ‘Đất nước có nguy cơ bị chia đôi. Ông không có quyền tránh né trách nhiệm. Sự an toàn của Tổ Quốc đòi hỏi như vậy.’ Diệm đã từng khước từ chức thủ tướng do Bảo Đại mời nhiều lần. Nhưng lần này ông ta nói, sẽ nhận, nếu Bảo Đại cho ông ta được toàn quyền kiểm soát toàn bộ các vấn đề dân sự và quân sự. Từ trước Bảo Đại chưa bao giờ cho ai điều đó. Nhưng lần nay ông ta đồng ý. Và Diệm trở thành thủ tướng.”

            Sau đó, tác giả nói đến những khó khăn chồng chất ban đầu do di sản chiến tranh và chia rẽ để lại mà ông Diệm phải vượt qua. Cầu đường bị phá, hệ thống viễn thông bị cắt, nông dân thất nghiệp lang thang, kể cả dân tỵ nạn từ miền Bắc trở thành gánh nặng. Nặng nhất là guồng máy hành chính và quân sự tan hoang, sau khi người Pháp ra đi và hàng vạn lính đào ngũ. Riêng về việc chuyển vận, tổ chức tiếp đón và định cư cho gần một triệu dân, tác giả đã trích dẫn nhà báo Bernard Fall, tác giả cuốn The Two Vietnams:

            “Bernard Fall, một trong những người từng chỉ trích ông Diệm kịch liệt nhất, đã nhận xét: “Di chuyển gần một triệu lính được huấn luyện thành thục trong thời bình đã là một kỳ công về vận chuyển và tiếp liệu. Còn di chuyển cũng ngần ấy thường dân tỵ nạn chạy trốn vô tổ chức trong vòng không đầy một năm chắc chắn sẽ còn là một thành tích nổi tiếng về lâu về dài.”.”

            Trong chương này tác giả nêu lên hai nhân vật Mỹ nổi bật, một người cố giúp ông Diệm lướt thắng mọi trở ngại và một người bằng mọi cách muốn hạ ông Diệm hay thay thế ông bằng những lãnh tụ khác. Đó là Edward Geary Lansdale, đại tá, và J. Lawton “Lightning Joe” Collins, đại tướng. Lansdale được ủy nhiệm của Allen Dulles, giám đốc CIA. Còn Collins là đặc phái viên toàn quyền của tổng thống Mỹ, đồng thời cũng là bạn thân của Tổng Thống Eisenhower.

            Vì tin tưởng rằng một chính phủ mạnh phải có một đạo quân mạnh, nên

            “Tổng Thống Eisenhower đã ngay lập tức thuyên chuyển tướng J. Lawton “Lightning Joe” Collins, nguyên tham mưu trưởng Lục Quân, nguyên đại diện Hoa Kỳ tại ủy ban quân sự thuộc Minh Ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) tới ngay Sài Gòn thay thế Đại Sứ Heath để quán xuyến mọi nỗ lực. Khi Collins lên đường đi Sài Gòn, ngoại trưởng Dulles bảo ông, Hoa Kỳ hy vọng cơ may thành công chỉ có một trên mười.”[36]

            Muốn chứng tỏ ông Diệm là người khó hiểu đối với người Mỹ, tác giả đã nêu hai nhận xét trái ngược của tướng Collins về ông Diệm như sau:

            “Mới đầu Collins báo cáo: “Diệm là một người nhỏ thó, nhút nhát, thiếu tự tin hầu như không có hấp lực nào…” (…) Vài tháng sau, Collins lại ca tụng phẩm cách của Diệm: “Sự liêm khiết, lòng yêu nước mãnh liệt, sự nhẫn nại và những đức tính linh thiêng khác làm ông ta trở thành vị thủ tướng tốt nhất có thể có để lãnh đạo Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống Cộng.”[37].

            Nhưng rồi sau đó Collins lại hàng chục lần yêu cầu Hoa Thịnh Đốn thay thế vị thủ tướng mà ông gọi là bất tài và ương ngạnh này.

            Trong chương Tết Con Heo nhớ Xuân Con Mèo, chúng tôi đã trưng dẫn Seth Jacobs, tác giả cuốn America’s Miracle Man in Vietnam, nói tướng Collins đã 12 lần đề nghị với Tổng Thống Eisenhower thay thế ông Diệm, bằng một người khác, và nhiều lần ông đã nêu đích danh Bác Sĩ Phan Huy Quát, hay Bác Sĩ Phan Huy Đán (hay Phan Quang Đán). Thì ở đây Tiến Sĩ Mark Moyar cũng năm lần bảy lượt nói đến chuyện tướng Collins đề nghị với Tổng Thống nên tìm người khác thay thế một ông Diệm ngang bướng, bất phục thiện.

            Dĩ nhiên Tổng Thống tin người bạn thân của mình, lại là đại diện toàn quyền có mặt tại chỗ. Nên đã nhiều lần Tổng Thống muốn thuận theo.

            Nhưng những biến cố dồn dập trong vòng mấy tháng cuối năm 1954 và đầu năm 1955 cho thấy khả năng phi thường của ông Diệm trước những vấn đề nan giải đến tuyệt vọng, đã khiến Tòa Bạch Ốc thay đổi ý định. Thay vì thay thế ông Diệm, Tổng Thống Mỹ đã triệu hồi hẳn vị đại sứ toàn quyền về Mỹ. Rồi Eisenhower ca ngợi Ngô Đình Diệm là “Con Người Thần Kỳ” (A Miracle Man). Năm 1957 ông cho trải thảm đỏ, ra tận chân cầu thang máy bay đón Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa.

            Sau đây là một vài trích đoạn về những đề nghị liên tiếp của tướng Collins nhằm đánh đổ Ngô Đình Diệm được tác giả nêu lên giữa lúc ông Diệm phải đối phó với quân đội viễn chinh Pháp hãy còn trấn giữ nhiều địa điểm trọng yếu tại thủ đô, và hiện đang ủng hộ loạn tướng Nguyễn Văn Hinh muốn lật ông Diệm; các giáo phái muốn duy trì tình trạng “thập nhị sứ quân”, bất tuân lệnh Thủ Tướng; giữa lúc nhóm Bình Xuyên vốn được Quốc Trưởng Bảo Đại ưu đãi, hiện đang làm mưa làm gió, vì toàn bộ lực lượng Cảnh Sát Công An nằm trong tay Lai Văn Sang, cánh tay phải của đầu đảng Lê Văn Viễn tục gọi Bảy Viễn; giữa lúc chương trình định cư gần một triệu dân tỵ nạn CS từ miền Bắc vào đang cần xúc tiến thật nhanh để tạm thời giải quyết những khó khăn trở ngại do tâm lý và phong tục tập quán khác nhau giữa hai miền Nam Bắc… Trong hoàn cảnh đó,

            “Giới ngoại giao ở Sài Gòn hầu hết đều tin rằng chính phủ Diệm sắp đổ đến nơi. Và báo chí của Pháp tiên đoán sự sụp đổ của Diệm với sự vui mừng khôn tả. Trong khi đó cả báo Mỹ cũng tiên đoán như vậy, nhưng không vui.”

            “Khi Tướng Collins từ Sài Gòn về đến Hoa Thịnh Đốn (để tường trình), ông đã nói với Tổng Thống Eisenhower rằng cần phải loại bỏ Diệm ngay tức khắc.”

            Tổng Thống và Ngoại Trưởng đưa ra nhiều lý do để bác bỏ và đòi phải đợi cho đến lúc tìm được người tương xứng để thay thế.

            “Nhưng Collins vẫn cứng rắn (như kim cương). Phải loại bỏ Diệm ngay.”

            Và hai nhà lãnh đạo Mỹ đành nhượng bộ. Mọi văn kiện cần thiết đã soạn thảo gửi đi Paris và Sài Gòn để tìm người thay thế ông Diệm.

            “Bộ ngoại giao gửi công điện đi ngày 27 tháng 4 chỉ ít phút sau 6 giờ, giờ Hoa Thịnh Đốn.”

            “Vừa đúng lúc xem ra chế độ Diệm đang tiến tới nhà quàn, thì Diệm đã có một sáng kiến làm đảo lộn kế hoạch của Collins.” (…)

            Thủ Tướng Ngô Đình Diệm đã chiến thắng các phe phái chống ông ra sao, lịch sử đã ghi đầy đủ, và được tác giả nhắc lại một cách tóm tắt.

            Sau khi đánh bại mọi thế lực kình chống ông, ông Diệm bắt đầu tập trung nỗ lực vào việc truy lùng những phần tử Cộng Sản được gài lại ở miền Nam, sau khi một số cán bộ đã tập kết ra Bắc theo hiệp định Genève.

Chương 3: Sống chung hòa bình: Từ 1956
đến 1959.

            Tác giả dành mấy trang đầu nói về chủ trương sống chung hòa bình của Khrutshchev khiến Hà Nội có vẻ nghiêng về phía Trung Cộng và tìm sự ủng hộ của “anh ba”. Nhưng Trung Cộng còn bị vết thương chiến tranh Triều Tiên hành nên lạnh nhạt và dè dặt khuyên đàn em “phải nhẫn nại”.

            Rồi ông nói đến hậu quả tai hại của Cải Cách Ruộng Đất tại miền Bắc. Những bất mãn từ nhiều phía. Những cuộc nổi loạn. Vụ thảm sát tại Quỳnh Lưu, trong đó ông Hồ đã dùng cả sư đoàn 325 để đàn áp giết hàng ngàn người vô tội

            Sau đó là tình trạng kinh tế hầu kiệt quệ của miền Bắc do việc công hữu hóa mọi cơ sở thương mại, và chế độ hợp tác hóa công nông thương nghiệp…

            Nửa sau của chương sách nói về những thành quả của chính quyền Diệm về phương diện kinh tế, giáo dục, an ninh. Về công cuộc “cải cách điền địa”. Về “bức tường người” (human wall) mà ông Diệm dựng lên ở cao nguyên là lãnh thổ chiến lược dùng để chống lại sự xâm nhập tương lai của Cộng Quân. Tác giả đã nhắc lại lời Tổng Thống Diệm từng nói: “ai giữ được cao nguyên thì giữ được cả nước.”

            Về bản chất chế độ Việt Nam Cộng Hòa, tác giả phê bình nhẹ nhàng rằng tuy theo hiến pháp đó là một chế độ tự do dân chủ theo tổng thống chế, nhưng trên thực tế ông Diệm đã khéo léo nắm giữ cả 2 quyền lập pháp và tư pháp, vì Quốc Hội gồm phần lớn người trung thành với ông. Tác giả trưng dẫn lời của Douglas Pike nói về tự do ngôn luận của VNCH như sau:

            “Một trong những hồi ức mạnh nhất của tôi tại Việt Nam năm 1960 là nghe thấy dân Việt Nam tại những nơi công cộng nói lớn tiếng, rất dễ nghe thấy, rằng “chế độ này là chế độ độc tài, và chúng tôi không có tự do ngôn luận” rồi họ tha hồ kể ra những tội lỗi của chính phủ. Dường như có một luật bất thành văn là chống đối vô tổ chức thì được, nhưng chống đối có tổ chức thì cấm.” (Xem Viet Cong của Douglas Pike, Cambridge M.I.T., 1966, tr. 59)

            Để phần nào bào chữa cho ông Diệm, tác giả viết:

            “Diệm thường nhắc đi nhắc lại lời thú nhận rằng ông ta ước ao có được nền dân chủ trong thời gian này. Nhưng ông ta lại nói dân chủ không thể tới ngay tức khắc. Và thực ra ông ta quan niệm dân chủ không giống người Tây phương, hay những người Việt đã bị Tây phương hóa. Ông ta hiểu dân chủ như thế này: “Dân chủ chủ yếu là một cố gắng thường trực để tìm ra những phương tiện chính trị đúng đắn ngỏ hầu bảo đảm cho người dân cái quyền phát triển tự do và sáng kiến tối đa, phát triển tinh thần trách nhiệm và cuộc sống thiêng liêng.” (trang 75)

Chương 4: Nổi dậy: 1960

            Trong chương này tác giả nói về những cuộc nổi dậy của Cộng quân, đặc biệt ở Bến Tre (Kiến Hòa), Tây Ninh và cả cuộc nổi loạn của một số sĩ quan VNCH, được biết đến như một chính biến hay đảo chính hụt tháng 11 năm 1960.

            Trước hết là vai trò lãnh đạo những cuộc nổi dậy tại tỉnh Bến Tre của nữ tướng Việt Cộng Nguyễn Thị Định.

            “Tất cả những gì cộng Sản có thể làm được là tổ chức hàng ngàn phụ nữ bao vây trụ sở các quận lỵ, phóng uế trên đất (defecate on the ground!), và đòi trừng phạt quân của chính phủ, đòi bồi thường cho các nạn nhân của chúng. Tuy những cuộc nổi dậy này đã làm sống lại phong trào Cộng Sản trong vùng và cho họ một số vũ khí. Nhưng không đạt được mục đích lập một vùng giải phóng lâu dài.”

            Hoạt động của Cộng quân ở Tỉnh Tây Ninh gây cho chính phủ nhiều tổn thất hơn. Sáng ngày 26-1-60, 4 đại đội VC tấn công một căn cứ của quân chính phủ, giết chết viên sĩ quan xử lý thường vụ trung đoàn trưởng và 40 quân sĩ khác. Vì thất bại này, viên trung đoàn trưởng bị giáng chức xuống đại úy và sư đoàn trưởng bị cách chức.

            Tháng 3 lại có thêm nhiều cuộc đụng độ nữa. Nhưng sau đó các cuộc tấn công bằng quân sự ngừng hẳn. Chính sách của Hà Nội là tạm thời chờ đợi. Văn kiện đảng CS ghi chỉ thị của Ủy ban Trung Ương Đảng đưa ra vào tháng 4:

            “(…) chúng ta cần thời gian để cho phong trào phản đế và đặc biệt là phong trào chống Mỹ ở Đông Nam Á lớn mạnh hơn, và hoạt động với phong trào này nhằm làm suy yếu và cô lập bọn đế quốc Mỹ và đồng minh của chúng.”

            Việt Cộng trở lại hình thức du kích chiến, ám sát, bắt cóc. Mỗi tháng trong năm tháng đầu năm 1960 có 150 vụ ám sát và 50 vụ bắt cóc!

            Dân vệ không đủ sức chống lại những hành động khủng bố này. Theo tác giả là vì thiếu lãnh đạo, và thiếu vũ khí. Ông quy trách cho đại sứ Durbrow không chịu cấp vũ khí theo yêu cầu của ông Diệm.

            Trong giai đoạn Cộng quân lui về du kích chiến và khủng bố ám sát, tác giả đưa ra nhận xét là cán bộ Cộng Sản tỏ ra hơn các viên chức chính phủ về phương diện lãnh đạo, nhất là về tuyên truyền. Cộng sản biết cách thỏa mãn nhu cầu và đòi hỏi của người dân. Họ không giảng về lý thuyết chính trị, cũng chẳng nhấn mạnh đến lòng yêu nước, hay chủ nghĩa dân tộc, càng tránh né không bao giờ nói đến chủ nghĩa Cộng Sản. Mà chỉ hứa chắc nịch rằng, nếu đánh đổ được chính quyền thì sẽ được chia đất. Nhưng về cuộc Cải Cách Đẫm Máu ở miền Bắc, thì có lẽ chẳng những dân quê miền Nam mà ngay cả cán bộ CS ở trong Nam cũng chưa từng nghe biết.

            Về hiệu quả tai hại của tuyên truyền tác giả nêu một ví dụ của một thanh niên tên Lê Văn Toán, chỉ vì nghe lời thuyết giảng hấp dẫn của cán bộ CS mà y đã giết cha mình, vì tin rằng ông làm điều sai trái như CS nói.

            Tác giả nói nhiều về việc Tổng Thống Diệm xin viện trợ để trang bị cho 20,000 lính chuyên dùng vào việc bảo vệ dân quê, canh gác cầu đường và trụ sở các thị xã, quận lỵ. Tướng Williams tán thành, nhưng bị đại sứ Durbrow bác bỏ.

            Đặc biệt trong cuộc đảo chính hụt đầu tháng 11, tác giả nghi ngờ Durbrow có yểm trợ phe đảo chính. Tuy không có bằng chứng hiển nhiên. Nhưng ông nêu lên rất nhiều sự việc, cũng như lời nói của vị đại sứ này khiến ai đọc cũng phải nghi như vậy. Có lẽ vì thế mà người ta thấy Tổng Thống Diệm, mặc dù đã dẹp xong cuộc nổi loạn, đã lớn tiếng la mắng kẻ thù, mà ai cũng hiểu ông ám chỉ chính đại sứ Hoa Kỳ, Durbrow.

            Sau cuộc đảo chính một nhân viên CIA từng liên lạc chặt chẽ với tòa đại sứ là Carver đã phải rời Việt Nam, rồi sau đó ít lâu chính ông Durbrow cũng ra đi.

            Chính bản tuyên ngôn của nhóm Caravelle cũng được Durbrow sau này cho biết là do một vài người Mỹ giúp soạn thảo. Cựu đại sứ Bùi Diễm, trong In The Jaws of History, thì viết rằng ông là người giúp soạn thảo bản tuyên ngôn này.[38]

            Điểm khá quan trọng mà chúng tôi muốn nêu lên về chương 4 này, là tác giả Mark Moyar đã trưng dẫn nhiều tài liệu để chứng minh rằng vào thời gian đó cả Liên Xô lẫn Trung Cộng đều không tán thành việc Bắc Việt tấn công miền Nam bằng quân sự, mặc dù vào ngày 20 tháng 12 năm 1960, họ đã cố đưa một số đảng viên cốt cán vào dựng nên được cái gọi là Mặt trận Giải Phóng Miền Nam, mà tác giả gọi là một thứ Việt Minh của miền Nam do Đảng Nhân Dân Cách Mạng (một chi nhánh hay đúng hơn, một cái tên khác của đảng Lao Động, tức đảng Cộng Sản Việt Nam) lãnh đạo, cũng giống như năm 1945 Việt Minh cũng do đảng Cộng Sản lãnh đạo vậy. Về việc này Mark Moyar viết:

            “Bắc Việt liên tục phải đương đầu với sự hạn chế bạo động do Trung Cộng và Liên Xô áp đặt, vì họ sợ Eisenhower nổi trận lôi đình. Vào tháng 5, Trung Cộng bảo Bắc Việt rằng Nam Việt Nam sẽ phải được giải phóng, nhưng bằng chiến tranh trường kỳ gồm cả chính trị lẫn quân sự, chứ không phải dứt khoát bằng một chiến dịch quân sự.” (trang 101)

            Điểm chót về chương này cũng rất quan trọng không thể bỏ qua là trước tình hình Ai Lao bị Cộng Quân xâm chiếm, Tổng Thống Eisehower đã hết sức quan ngại.

            “Ông nói: ‘Chúng ta không thể để Ai Lao rơi vào tay Cộng Sản, ngay cả nếu chúng ta phải chiến đấu – cùng với các đồng minh hay ngay cả không có đồng minh’. Nếu cuộc khủng hoảng ở Ai Lao xảy ra sớm hơn, rất có thể Eisenhower đã khởi công đưa lực lượng Mỹ vào Ai Lao. Nhưng lúc ấy chỉ còn vài tuần nữa hết nhiệm kỳ Tổng Thống, nên ông quyết định để cho vị tổng thống kế nhiệm lấy quyết định về Ai Lao và xem xét tường tận chính sách cần áp dụng.” Nhưng theo tác giả vị tổng thống sau này là “người mà ý chí và khả năng có thể khai chiến ở Ai Lao là vấn đề tranh cãi.”

            Ý tác giả là Tổng Thống Kennedy sẽ không có ý chí và khả năng đánh Cộng như vị tiền nhiệm, là một thống tướng, chiến lược gia hàng đầu của Mỹ đã lãnh đạo quân Đồng Minh chiến thắng Phát-xít Đức trong thế chiến II.

            Bằng những lời trên tác giả đã kết thúc chương 4.

Chương 5: Dấn thân nhập cuộc: 1961.

            Đầu chương tác giả nói về sự ngưỡng mộ mà Tổng Thống Kennedy, khi còn là nghị sĩ đã dành cho ông Diệm. Về những nhân vật có ảnh hưởng lớn với vị tổng thống mới như McNamara, McGeorge Bundy, Dean Rusk.

            Rồi ông trưng dẫn câu nói lịch sử của Kennedy trong ngày nhậm chức:

            “Mọi dân tộc nên biết, dù họ muốn điều tốt hay điều xấu cho chúng tôi, rằng chúng tôi sẽ trả bất cứ giá nào, mang bất cứ gánh nặng nào, chịu bất cứ cực khổ nào, ủng hộ bất cử thân hữu nào, chống đối bất cứ kẻ thù nào để bảo đảm sự tồn tại và thắng lợi của tự do.”

            Trước sự hứa hẹn triệt để ủng hộ chính quyền Ngô Đình Diệm của Tổng Thống, Đại sứ Durbrow đành bỏ đòi hỏi nới rộng dân chủ tự do, đồng thời cũng không còn phản đối chuyện trang bị thêm cho 20,000 lính.

            Đại tá Lansdale, trước kia bị đại sứ Durbrow ngăn cản, nay đã có thể thăm viếng Việt Nam và đề nghị, “việc đầu tiên là phải thay thế vị đại sứ mất thiện cảm của ông Diệm này”. Chỉ hai ngày sau khi tiếp Lansdale, Tổng Thống Kennedy chấp thuận ngân khoản để tăng thêm 20,000 quân cho Việt Nam Cộng Hòa.

            Tác giả nhìn nhận miền Nam trong hai năm 1960 và 1961 đã thất bại trong việc chống du kích và nổi dậy của Cộng quân. Ông trích lời tướng McGarr ước đoán Diệm chỉ kiểm soát được 40% nông thôn. Nhưng phía VC cũng không lạc quan gì. Vì theo Lê Duẩn lực lượng quân sự của Diệm vẫn còn nguyên vẹn.

            Vấn đề mà Tổng Thống Kennedy quan tâm nhất, tuy vậy, không phải Việt Nam mà là Ai Lao. Tại đây Việt Cộng đã có 12,000 “quân viễn chinh”.

            Nhưng thay vì theo lời khuyên của nguyên Tổng Thống Eisenhower đem quân vào Ai Lao, “Tổng Thống Kennedy đã quyết định không dùng võ lực và chỉ phô trương lực lượng. (…)” (trang 127)

            Rồi sau đó giao cho Averell Harriman, người cực lực chống đối việc can thiệp trực tiếp vào Ai Lao, trách nhiệm thương thuyết với đối phương để đạt một thỏa hiệp về trung lập hóa Ai Lao.

            “Ngày 29-4-61 Tổng Thống Kennedy chấp thuận đề nghị tăng số cố vấn tại Nam Việt Nam từ 685 lên 785. Đây là lần đầu tăng số cố vấn Mỹ kể từ năm 1956. Dân vệ được tăng từ 32,000 lên 68,000… và Lục Quân tăng từ 170,000 lên 200,000.”

            “Tổng thống cũng theo đề nghị của Lansdale là tân đại sứ Frederick Ernest “Fritz” Nolting nên cải thiện mối giao hảo với Tổng Thống Diệm… và đừng áp lực ông này phải loại bỏ ông Nhu…”

            Về các cuộc đụng độ giữa quân chính phủ và Cộng quân, tác giả ghi lại những trận đánh ngày đầu tháng 9 và ngày 17 tháng 9, trong đó tỉnh trưởng Phước Thành Nguyễn Minh Mẫn bị giết phân thân, và vợ cũng bị bắn. VC sớm rút lui mang theo một trăm súng, giải thoát và dẫn đi 270 tù nhân CS.

            Đầu tháng 3 đặc phái viên của Tổng Thống là Tướng Maxwell Taylor đến quan sát tại chỗ và báo cáo: “Hồ sơ cho thấy tình hình chính trị tại miền Nam xấu đi từ 1959 là do chính phủ không có khả năng bảo vệ dân và điều khiển chiến cuôc một cách hữu hiêu.” Nhưng viễn cảnh không đến nỗi ảm đạm. Taylor viết: “Mặc dầu có khuyết điểm, Diệm vẫn có khả năng phi thường, kiên cường và dũng khí.” Ông khuyên không nên thay thế Diệm, vì sẽ dẫn đến hỗn loạn.

            Cuối năm 1961 hàng viện trợ đổ tới Việt Nam càng ngày càng nhiều. Số người Mỹ cũng gia tăng lên tới 2,600. Kennedy cử tướng Paul Harkins cầm đầu phái bộ quân sự Mỹ tại Việt Nam. Tướng Harkins cũng như tướng McGarr luôn có lập trường ủng hộ và bênh vực Tổng Thống Ngô Đình Diệm.

            Cuối chương 5, tác giả viết: “Tháng cuối cùng của năm 1961 đánh dấu bước đầu của khúc ngoặt quan trọng trong chiến tranh Việt Nam… Chiến lược của Kennedy nhằm cung cấp cố vấn và viện trợ cho Nam Việt, chứ không gửi quân tác chiến sang là căn cứ vào sự tin tưởng vào khả năng chiến đấu của Nam Việt Nam…”

Chương 6: Sự trẻ trung hóa, từ tháng Giêng
đến tháng 6 năm 1962.

            Kennedy tăng viện, gửi thêm cố vấn vào Việt Nam. Nhưng lại muốn giấu. Ký giả bị cấm bay trên trực thăng trong những phi vụ hành quân. Giảm bớt sự phổ biến tin chiến sự. Ký giả quay ra săn tin để đả kích Diệm. Cả Diệm lẫn hai người ủng hộ ông là đại sứ Nolting và đại tướng Harkins đều kém về thu phục báo giới.

            “Không thèm lấy tin từ các giới chức Mỹ và chính phủ Diệm, báo giới Mỹ ở Sài Gòn đi lượm tin từ những trí thức người Việt và nhân viên Mỹ không làm việc ở tòa Đại Sứ hay cạnh bộ chỉ huy cao cấp cố vấn quân sự Mỹ. Các phóng viên thường không để ý là 2 nguồn tin này thường thiếu sót, sai lạc. Roger Hilsman thuộc bộ Ngoại Giao đã nhận xét đúng trong thư hồi tháng 2 rằng, một số nhân viên Mỹ đã ở Việt Nam quá lâu và từng thất vọng và ác cảm với chính quyền Việt Nam, hoặc bị ảnh hưởng không tốt của những người có quan điểm bất đồng chính kiến với chính quyền. Những phần tử bất mãn lâu năm đó mớm cho ký giả Mỹ quan điểm chủ bại. Họ cũng khuyến khích những kẻ bất đồng chính kiến trong số những trí thức Việt Nam từng chịu sự giáo dục của Pháp lúc ấy thường tập trung ở Sài Gòn.”

            Sau vụ dinh Độc Lập bị oanh kích và con gái ông bà Nhu thoát chết trong đường tơ kẽ tóc, báo chí Mỹ làm to chuyện, cho rằng nhân dân oán ghét chế độ, ông Diệm đã cứng rắn hơn với ký giả ngoại quốc. Ông cho lệnh tìm cách trục xuất Homer Bigart của Nữu Ước Thời Báo và Francois Sully của Tuần Tin Tức.

            Về mặt quân sự, hai tháng đầu năm 1962, không lấy làm hứa hẹn cho Sài Gòn. Vẫn những cuộc hành quân lớn không kết quả.

            “Trong khi đó Cộng quân càng thêm mạnh. Tình báo Mỹ tháng 2 cho biết, VC đã tăng quân số từ 20,000 lên 25,000 trong tháng 12 năm trước.”

            Nhưng đến mùa xuân thì tình hình khả quan hơn. Một trong những chiến thắng lớn nhất của chính quyền Sài Gòn trong mùa xuân là trận đánh ngày 6 tháng 4 ở Trà Bồng. Hãng AP loan VC thua chạy để lại 45 xác, và có thể có nhiều xác đã được mang theo. Phía Sài Gòn có 16 chết và 33 bị thương.

            Đến giữa năm 1962 số cố vấn quân sự Mỹ đã tăng vọt, từ 2,600 lên đến 11,500.

            Về hiệu quả của sự cố vấn của Mỹ, tác giả phân biệt:

            “Cố vấn về chính trị của người Mỹ thường vô bổ, vì họ thiếu hiểu biết về văn hóa Việt Nam. Trong khi đó cố vấn về quân sự trái lại đã giúp ích nhiều cho sự tiến bộ trong công cuộc điều binh bố trận.”

            Tác giả đã giành 3 trang để nói về Ấp Chiến Lược mà ông cho rằng của ông Nhu, chứ không phải của Sir Thompson như nhiều người nghĩ. Ông bảo đây là một cuộc cách mạng hóa nỗ lực chiến tranh.

            “Khi giải thích về chương trình ACL, Diệm và Nhu thường năng nói đến tính dân chủ của nó, nhưng là thứ dân chủ theo kiểu Việt Nam, chứ không phải dân chủ theo kiểu Tây Phương.”

            Người Mỹ có vẻ không hài lòng vì chương trình này được thực hiện sau lưng họ, và lại dùng cố vấn chính là người Anh (Sir Thompson) chứ không phải là người Mỹ (Rufus Phillips).

            Nhưng dầu sao những tiến bộ về hoạt động quân sự, kèm theo một số cải tổ trong guồng máy cai trị khiến người Mỹ không còn muốn ép Tổng Thống Diệm phải mở rộng chính phủ, đưa thêm người của đối lập vào nữa.

            Phía Hà Nội thấy Mỹ có vẻ dấn thân và chế độ Sài Gòn xem ra ổn vững nên ngỏ ý muốn thương thảo với cả Diệm lẫn Mỹ, sẵn sàng chấp nhận một miền Nam Việt Nam trung lập với một chính phủ liên hiệp gồm mọi nhóm chính trị tôn giáo và các tổ chức xã hội.

            Trong khi đó Hồ Chí Minh được Liên Xô cho 3,000 súng và Trung Cộng cung cấp 90,000 vũ khí đủ để trang bị cho 230 tiểu đoàn mới.

            Phần cuối chương 6, tác giả phân tích tình hình Ai Lao và hiệp định Genève về Ai Lao.

            Tháng 4, Tổng Thống Kennedy theo đề nghị của Harriman cắt viện trợ cho chính phủ của hoàng thân Phoumi hòng tiến tới một chính phủ liên hiệp 3 phe. Tổng Thống Diệm viện dẫn bài học lịch sử về Cộng sản Hy Lạp chỉ bị đánh bại sau khi Ti-tô không cho chúng lợi dụng lãnh thổ Nam Tư, để khẩn khoản yêu cầu Hoa Kỳ ngăn cản không cho Việt Cộng lợi dụng lãnh thổ Ai Lao để xâm nhập miền Nam Việt Nam. Nhưng không được.

            Kennedy quá tin Harriman, nên đã không nghe lời những cố vấn phe “diều hâu”, như McNamara, McCone. Ngày 13 tháng 5, nguyên tổng thống Eisenhower đã nói với hai ông này rằng, “Nếu mất Ai Lao thì cuối cùng Nam Việt Nam và Thái Lan sẽ mất.” (…) Vì vậy phải giữ Ai Lao bằng mọi giá. Ít nhất cũng phải giữ được một nửa. Nếu cần đến bom nguyên tử chiến thuật để giữ Ai Lao cũng không từ.

            Nhưng Harriman nhất định cho rằng Liên Xô sẽ bảo đảm việc Việt Cộng rút hết khỏi Ai Lao. Quả thực Khrutshchev có gửi cho Tổng Thống Kennedy một lá thư hứa Cộng quân sẽ không có hành động quân sự nào rộng lớn ở Ai Lao. Nhưng thực tế sau này cho thấy đấy chỉ là lời hứa hão.

            Vì đại sứ Nolting tỏ ý không tán thành hiệp ước trung lập hóa Ai Lao, nên Harriman lại một lần nữa vận động để đưa Nolting ra khỏi Nam Việt Nam. Nhưng không thành công.

            “Tuy nhiên sự chống đối của Nolting không phải là vấn đề quan trọng đối với Harriman như sự chống đối của Diệm, vì Diệm là lãnh tụ tối cao của Đồng Minh có chủ quyền.”

            Nhưng rồi mọi sự cũng xong. Với lời hứa ngọt ngào của Tổng Thống Kennedy, Tổng Thống Diệm cuối cùng đã để cho ngoại trưởng VNCH ký hiệp ước đó một cách bất đắc dĩ, mà trong lòng thi lo âu. Với hiệp ước này, Ai Lao có chính phủ liên hiệp gồm 3 phe: Phe Trung Lập của hoàng thân Souvanna, phe hữu của hoàng thân Phoumi và phe cộng của hoàng thân Souphanouvong, em hoàng thân Souvanna..

            Tác giả kết thúc chương này bằng một nhận định lạc quan về tình hình Nam Việt Nam, mặc dù có sự xâm nhập gia tăng của Cộng quân từ Ai Lao. “Một sự tiến bộ đáng ngạc nhiên trong quân đội. Chương trình Ấp Chiến Lược trở thành cốt lõi của công cuộc bình định.”

Chương 7: Tấn công: từ tháng 7 đến
tháng 12 năm 1962.

            Mở đầu là việc bổ nhiệm tướng Paul Harkins làm trưởng đoàn cố vấn và những nỗ lực của ông nhằm ảnh hưởng đến những quyết định cần thiết của Tổng Thống Diệm liên quan đến việc cải tiến các đơn vị tác chiến. Harkins rất năng động và thường đi xem xét hoạt động của các cố vấn tại hiện trường, trái với lời cáo buộc của một số ký giả Mỹ là ông chỉ ngồi ở văn phòng.

            Tác giả trưng dẫn chiến thắng của sư đoàn 7 tại Đồng Tháp Mười ngày 20 tháng 7 làm ví dụ về kết quả của những khuyến cáo của tướng Harkins về việc chỉ huy và tinh thần tấn công. Tướng Harkins đã nói với Tổng Thống Diệm: “Chỉ có một cách để chiến thắng là tấn công, tấn công, và tấn công.” (Tr.168)

            Phó đại sứ William Trueheart lớn tiếng ca ngợi những tiến bộ đạt được là “đáng khích lệ kinh khủng”. Nhưng báo giới Mỹ thì không hào hứng như vậy. Sau khi Homer Bigart và Francois Sully hết hạn hộ chiếu, phải rời Việt Nam, chỉ còn một số nhà báo rất trẻ, trong số phải kể đến Neil Sheehan, 25 tuổi, David Halberstam, 28 và Malcolm Browne, 32. Theo tác giả, những nhà báo trẻ này đòi rằng họ phải được biết rõ mọi sự thực về chiến tranh, những thắng lợi cũng như những thất bại và khuyết điểm, lỗi lầm của chính phủ và quân đội. Vì vậy họ luôn chỉ trích các giới chức Mỹ và Việt Nam đã không cho họ được toàn quyền tiếp cận các nguồn tin. Tuy nhiên tác giả không kết tội họ là cố tình làm lợi cho địch. Ông viết:

            “Although they regularly denounce American and south Vietnamese leaders and some of their policies, they supported the basic American goal of defeating the Viet Cong in order to preserve a non-Communist South Vietnam and save the Southeast Asian dominoes.” (Tuy họ thường tố cáo các nhà lãnh đạo và một số chính sách của Mỹ và Nam Việt Nam, nhưng họ vẫn ủng hộ mục tiêu cơ bản của người Mỹ là đánh thắng Việt Cộng để duy trì một miền Nam Việt Nam không cộng sản và cứu các quân đô-mi-nô Đông Nam Á.”

            Trong mùa hè 1962 những phóng viên mới để quá nhiều thời giờ cho một mình sư đoàn 7. Tuy Halberstam và Sheehan và hầu hết các phóng viên khác phần nhiều lấy tin từ những nguồn không chính thức thuộc loại “Radio Catinat”, nhưng quả thực họ có đến thăm sư đoàn 7 và tháp tùng các cuộc hành quân khá đều. Lý do, theo tác giả, là vì từ Sài Gòn đến bộ tư lệnh sư đoàn 7 ở Mỹ Tho chỉ có 40 dặm đường khá tốt, và nhất là vì ở đó có sự hiện diện của Trung Tá John Paul Vann rất thích cung cấp tin cho các phóng viên để được nổi tiếng.

            Tác giả đưa ra nhiều điều không tốt về ông này, cũng như về bà mẹ của ông ta. Ít ai biết bà từng có con hoang, làm đĩ, và nghiện rượu. Nhiều chỗ, nhất là chương về trận Ấp Bắc, tác giả đã đưa ra nhiều tài liệu để chứng minh Vann nói láo, để chạy tội và đổ lỗi cho sĩ quan Việt Nam không muốn tiếp cứu người Mỹ bị địch bao vây… Chắc là ký giả Neil Sheehan “sùng” lắm vì ông ta đã ca tụng Vann hết lời trong tác phẩm lớn A Bright Shining Lie của ông ta. (Xin xem chương 20, Ngô Đình Diệm, Lời Khen Tiếng Chê của Minh Võ.) Vann là nguồn tin chính của Sheehan đã nói láo, thì các tin mà Sheehan đưa ra về những ưu điểm của Cộng quân và những sai trái của quân Quốc Gia còn có giá trị bao nhiêu?

            Trang cuối tác giả nhắc đến hiệp ước trung lập hóa Ai Lao, công trình của Harriman đã đưa đến việc Cộng quân tha hồ dùng đường mòn Hồ Chí Minh để xâm nhập miền Nam, vì vậy nhiều người lấy tên Harriman đặt cho đường mòn này: “Xa Lộ Tưởng Niệm Averell Harri-man”.

            Mặc dầu gặp khó khăn bội phần do cái “xa lộ Harriman” này gây ra, chính quyền Diệm vẫn thu lượm được nhiều thắng lợi vào hạ bán niên 1962.

            Tác giả kết thúc chương 7 bằng lời nhận xét của ký giả Wilfred Burchett, người Úc thân Cộng, đã từng sống với VC vào thời gian đó như sau:

            “Về lãnh thổ cũng như về dân số, Diệm đã lấy lại được một phần đáng kể. Quân (của Diệm) đã ghi đựợc một số thắng lợi và chủ động về chiến lược và chiến thuật… Năm 1962 là năm của Diệm.”

Chương 8: Trận Ấp Bắc; Tháng Giêng
năm 1963.

            Tác giả để gần 20 trang để viết về trận đánh cấp tiểu đoàn này, trong khi về những trận đánh khác trong năm 1962, ông chỉ nói qua mấy hàng. Thứ nhất vì đây là trận phản công đầu tiên của Việt Cộng sau một loạt thất bại trong 6 tháng cuối năm 1962, để cố dành lại thế chủ động. Nhưng VC đã thất bại, để lại trên một trăm xác chết.[39]

            Thứ hai, vì trận này đã được số đông báo giới và sử gia Mỹ sau này nêu lên để chứng minh sự “yếu kém và ươn hèn của chính quyền miền Nam không muốn chống cộng, chỉ muốn duy trì lực lượng hầu bảo vệ nhà Ngô…”

            Trong trận này quân của sư đoàn 7 bị thiệt hại nặng, 80 chết 109 bị thương. Lực lượng Mỹ yểm trợ có 3 người chết, 6 bị thương và nặng nhất là có tới 5 máy bay trực thăng bị hư hại. Dư luận phe chính thống coi đây là thất bại lớn chứng tỏ chính quyền đang trên đà suy sụp. Nhưng tác giả đã thuật lại đầy đủ chi tiết trân đánh, địa hình địa vật, và quân số hai bên, cũng như diễn tiến trận đánh, để đi đến nhận xét trái ngược. Theo tác giả thì, tướng Harkins và Đô Đốc Felt đều nhận định, đây là một chiến thắng của quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Riêng tác giả thì phân biệt, về mặt chiến thuật, sư đoàn 7 thất bại, vì không tiêu diệt được đối phương như đã hoạch định. Nhưng về mặt chiến lược thì thắng vì không để Cộng quân dành lại được thế chủ động.

            Tác giả cũng nêu bằng chứng để quy trách sự tổn thất – không chỉ về phía Mỹ – cho Trung Tá Vann. Hơn nữa còn kết tội ông nói dối. Những dẫn chứng chi tiết được nêu lên trong 62 chú thích có thể tạo nên một thách thức nghiêm trọng đối với sự đánh giá của “phe chính thống”.

Chương 9: Tổng Thống Diệm trước thử thách:
Từ tháng 2 đến tháng 7.

            Tình hình an ninh và công cuộc bình định tiếp tục tiến triển sau trận Ấp Bắc nhờ dân chúng tin tưởng vào chính quyền và cung cấp nhiều tin tức về hoạt động của Cộng quân. Từ tháng 2 đến tháng 7 Cộng quân chỉ có thể chủ động mở tấn công cấp tiểu đoàn 7 lần, so với 35 lần trong 6 tháng đầu năm 1962. Một tài liệu lịch sử của quân khu 5 VC sau này đã ghi: “Chính quyền Diệm đã lấy lại tất cả những gì chúng ta chiếm được.”

            Kết quả này theo tác giả là nhờ chương trình Ấp Chiến Lược. Ông trưng dẫn các chuyên gia người Úc (đại tá Ted Serong) và Anh (Sir Thompson) nhận định đây là thành tựu to lớn, khiến chính phủ đang trên đà chiến thắng. Cố vấn Mỹ Rufus Phillips cũng lạc quan, tuy dè dặt hơn.

            Cuối tháng bảy một toán đặc nhiệm thuộc sư đoàn 7 đã tấn công tiểu đoàn 514 VC khiến chúng phải bỏ chạy để lại 58 xác, và đem theo một số tương đương. Phía quân chính phủ có 18 tử thương.

            Phần đông ký giả Mỹ không báo cáo những thành tựu đó. Trái lại có kẻ như Halberstam còn cho rằng tình hình an ninh tồi tệ, nguyên do là tại bà Nhu. Nhưng “Đại tướng Edward Rowny bảo Halberstam: Này Dave, anh biết cuộc hành quân thắng lợi đấy chứ? Và dù nó thắng lợi hay không thì cũng chẳng dính dáng gì đến bà Nhu cả. Thậm chí binh sĩ còn chẳng biết bà ta là ai nữa. Halberstam đáp: Đại tướng ơi, độc giả không thích đọc bất cứ cái gì liên quan đến những cuộc hành quân bé nhỏ này đâu. Cái mà họ thích đọc là mụ “Long Nữ” (Dragon Lady) cơ.” (tr. 210, chú thích 27)

            Thử thách của ông Diệm chẳng những do báo chí Mỹ, do số lớn vũ khí và quân lính Bắc Việt xâm nhập qua đường mòn Harriman. Mà còn do biến cố Phật Giáo.

            Tài liệu VC cho biết mỗi tháng Bắc Việt chuyển vào Nam 1500 lính để tăng cường cho số quân chỉ vào khoảng 23,000. Đây là một tỷ lệ vô cùng lớn lao. Nhưng số quân VC đào ngũ, hoặc ra đầu thú với chính quyền trong chiến dịch chiêu hồi cũng rất lớn. Vì vậy chính quyền vẫn giữ được thế chủ động.

            Về biến cố Phật Giáo, tác giả đưa nhiều bằng chứng để đi đến kết luận giống như Tổng Thống Nixon hay cựu hoàng Bảo Đại đã khẳng định trong No More Vietnams hay Le Dragon D’Annam: Vấn đề không phải kỳ thị tôn giáo, mà là chính trị. Tác giả đã để nhiều trang bàn kỹ về nguồn gốc sự khủng hoảng, và vai trò của Thượng Tọa Thích Trí Quang, mà ông bảo là người đã áp dụng những phương pháp đấu tranh giống CS, hoàn toàn trái ngược với nếp sống và tác phong của một tu sĩ Phật Giáo. Ông trưng dẫn bằng chứng về việc Tổng Thống Diệm đã có thiện chí thương lượng, hòa giải, nhưng Thích Trí Quang luôn luôn chỉ muốn đánh đổ cho bằng được chính phủ. Tác giả cũng nhắc lại chuyện dĩ vãng, chính ông Hồ đã từng khoác áo nhà sư trong thời gian còn đấu tranh trong bí mật…

            Tiếc rằng báo chí Mỹ đã triệt để ủng hộ phong trào đấu tranh của Thích Trí Quang, lên án chế độ. Họ lý luận rằng Phật Giáo chiếm tới 70 hay 80 phần trăm dân, nên đại diện toàn dân và như vậy ông Diệm đã bị toàn dân lên án, không thể nào tồn tại… Tác giả đã bác bỏ hoàn toàn tỷ lệ phần trăm tưởng tượng này, bằng những thống kê chính xác.

            Tác giả cũng nói đến vai trò của Phạm Xuân Ẩn và Phạm Ngọc Thảo trong vấn đề ảnh hưởng đến dư luận báo chí Mỹ. Các nhà báo trẻ như Neil Sheehan và David Halberstan thường xuyên tiếp xúc với những nguồn tin sẵn ác cảm với chính quyền. Vì thế phần đông dư luận Mỹ và thế giới cũng lên án theo.

            Cuối chương tác giả viết:

            “Trong khi Trueheart, Hilsman, Halberstam và những người Mỹ khác bao vây Diệm với những yêu sách sai lầm về hòa giải, họ đã ngoảnh mặt làm ngơ trước hai sự thực quan trọng: nỗ lức chiến tranh của Nam Việt Nam đang tiến những bước dài, và vấn đề chính của Nam Việt Nam là sự xâm nhập càng ngày càng tăng của Cộng quân qua ngả Ai Lao.” (tr 228)

Chương 10: Phản bội: Tháng 8 năm 1963.

            “Xem ra tôi không thể nào làm cho tòa đại sứ tin được rằng đây là nước Việt Nam chứ không phải Hoa Kỳ”. Chương sách được mở đầu bằng lời Thống Thống Diệm nói với nữ ký giả Marguerite Higgins như vậy. Ông đã để gần 2 trang sách để tóm lược nội dung câu chuyện dài 5 giờ vào đầu tháng 8 giữa vị tổng thống độc thân và cô gái Mỹ trẻ đẹp. Cô này thích xông xáo lặn lội khắp nơi, từ rừng rậm đến đồng ruộng sình lầy[40] ở Nam Việt Nam hòng săn tin về cuôc khủng hoảng đang diễn ra. Cô là nữ ký giả đầu tiên của Mỹ được giải thưởng Pulitzer về báo chí.

            Rồi ông nói về làn sóng phản đối của sư sãi và Phật tử xung quanh chùa Xá Lợi. Trong số vài chục ngàn người đó, ông trưng bằng chứng từ phía CS rằng không ít người do VC xúi dục gia nhập cho thêm đông, để làm mất uy tín chính phủ.

            Về cuộc lùng bắt và giam giữ một số sư sãi và Phật tử trong chùa Xá Lợi đêm 22 tháng 8, tác giả trưng bằng chứng từ nhiều nguồn tài liệu, cho biết chính các tướng lãnh sau này làm cuộc đảo chính đã xin TT Diệm được dẹp nhóm quá khích. Vì lúc ấy nhiều người bất mãn với TT Diệm, không phải vì ông quá cứng rắn với nhóm Phật tử quá khích, mà vì họ cho rằng ông quá mềm yếu. Chính Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ chỉ vài ngày trước khi đảo chính đã tuyên bố với các nhà ngoại giao ngoại quốc rằng đáng lẽ chính quyền đã phải dập tắt phong trào Phật Giáo không nương tay.

            Trước khi có cuộc lục soát và bắt giữ nhóm chống đối trong chùa Xá Lợi, chính tướng Trần Văn Đôn đã lên đài phát thanh tuyên bố tình trạng thiết quân luật. Rồi sau đó Quân Đội đã bố trí tại các nơi hiểm yếu trong thành phố để cho 3 lực lượng Cảnh Sát, Thanh Niên Cộng Hòa và Lực Lượng Đặc Biệt xông vào Chùa, bắt giữ bọn người làm loạn.

            Hành động quyết liệt của quân đội đã lấy lại được uy tín cho chính quyền. Nhưng các ký giả Mỹ, mà nổi bật là Halberstam đã dựa vào những nguồn tin ác cảm hay sai lạc để tố cáo ông Nhu lộng quyền chỉ huy cuộc “đàn áp”. Tác giả viết: “Tất cả tin tức nêu lên trong bài báo của Halberstam về vụ 22 tháng 8 xuất phát từ những nguồn vô danh mà anh ta náo nức muốn tin là đúng, nhưng tất cả đều sai.”

            Tác giả tấn công Halberstam bằng một loạt bằng chứng về những báo cáo láo của anh ta. Chẳng hạn Halberstam báo cáo có 4 người bị bắn chết tại Huế, thì khi Phái đoàn Liên Hiệp Quốc tới điều tra, họ đã phỏng vấn cả 4 người (đã chết!) này.

            Cùng với 3 nhà báo ác cảm với ông bà Nhu, còn có 3 người trong chính quyền Mỹ cũng cùng một tâm trạng. Họ cùng nhau lập thành nhóm Diem-Must-Go (theo đại sứ Frederick Nolting) tiến hành một loạt mánh mung không đường hoàng, nếu không muốn bảo là gian xảo, để áp lực cho ông Diệm phải loại trừ ông Nhu.

            Vì đây là vấn đề vừa khuất tất vừa khôi hài một cách chết người nên xin dịch nguyên văn một đoạn dài của tác giả:

            “Harriman, Hilsman và Forrestal mô tả biến cố 21-8 theo cùng một cách như báo giới Mỹ. Họ quả quyết rằng chính phủ đã quyết định tấn công tàn bạo các chùa chiền. Họ không xét đến sự khiêu khích và chủ ý phản nghịch đã khiến chính phủ phải đuổi những kẻ đấu tranh ra khỏi chùa. Vì không quen với văn hóa của Việt Nam, họ không hiểu rằng dung túng những cuộc chống đối như ở chùa Xá Lợi sẽ làm cho người lãnh đạo bị mất uy tín. Trong trí của 3 người Mỹ này, việc dọn sạch các chùa hoàn toàn do Nhu toan tính nhằm bách hại các Phật tử và không cho dân chúng có quyền tự do ngôn luận, và như vậy sẽ khiến cho công chúng phải chống lại nhà Ngô…

            “Harriman và Hilsman đã từ lâu hy vọng thấy Nhu phải ra đi. Thì đây cơ hội bằng vàng đã tới. Trong bản giác thư họ viết: “Chính phủ Hoa Kỳ không thể dung thứ một tình huống trong đó quyền hành nằm trong tay Nhu.” Họ cho phép đài Tiếng Nói Hoa Kỳ và các cơ quan thông tin khác của chính phủ loan báo rằng lỗi ở ông Nhu, chứ không phải quân đội. Đi xa hơn cả những gì 4 nguồn tin Việt Nam khuyên làm (các tướng Đôn, Kim, Bộ Trưởng Thuần và Võ Văn Hải khuyên nên cho Nhu đi, nhưng giữ Diệm lại vì không thể có ai thay được ông Diệm, MV), họ xác quyết rằng hãy cho Diệm một cơ may loại Nhu, nhưng nếu không loại được Nhu, thì chính ông Diệm cũng không thể giữ.” Tác giả bản thông điệp chỉ thị cho đại sứ Lodge cho các tướng lãnh biết, nếu Diệm không đưa Nhu đi và nhượng bộ nhiều hơn với phe Phật Giáo, thì Hoa Kỳ sẽ thôi không ủng hộ Diệm và sẵn lòng ủng hộ một lãnh tụ khác.

            “Chiều thứ bảy ấy, Harriman và Hilsman mang bức công điện tới số 9T câu lạc bô Chevy Chase, là nơi thứ trưởng ngoại giao George Ball đang chơi Golf. Ball thích chơi bạo. Ông ta đã chán ghét cuộc đàn áp Phật Giáo của Diệm, như đã được thông báo bởi các ký giả Mỹ mà ông ta thích. Vào một dịp nọ, ông ta đã nói với TT Kennedy rằng “Ngài sẽ có lợi hơn nếu truyện trò với những ký giả đang làm việc ở Việt Nam hơn là nói chuyện với những viên chức chính phủ Hoa Kỳ”. Ball khuyên nên xin phép Tổng Thống Kennedy để gửi công điện đi Sài Gòn.

            “Hai tác giả công điện và Ball bèn gọi điện cho Tổng Thống lúc ấy đang nghỉ cuối tuần ở Cape Cod, và giục ông duyệt y bản công điện. Kennedy vốn đã có vẻ nghiêng về quan điểm là Nhu phải ra đi và phải ép Diệm một cách đáng kể vì dư luận báo chí xôn xao về vụ tấn công chùa. Tuy nhiên ông không biết sự tai hại mà bản công điện gây ra cho ông Diệm. Ông vẫn còn quý trọng ông Diệm, và về sau, khi đã thấy rõ những ngụ ý đầy đủ của công điện, ông đã ân hận. Từ Cape Cod Kennedy bảo các viên chức bộ ngoại giao rằng ông chấp thuận công điện, với điều kiện là họ phải được sự đồng ý của thủ trưởng của họ, là ngoại trưởng Dean Rusk, và của ông Roswell Gilpatric đang tạm thay bộ trưởng Quốc Phòng McNamara. Ông này đang leo núi ở Wyoming. Tổng Thống đặc biệt quan tâm đến quan điểm của bộ Quốc Phòng vì bộ này kiên quyết ủng hộ ông Diệm.

            “Gọi điện đến sân vận động Yankee, người ta bảo ngoại trưởng Rusk rằng Tổng Thống đã duyệt y công điện, mà không nói rằng Tổng Thống duyệt y với điều kiện là Ngoại Trưởng và ông Gilpatric cũng đồng ý. Ông Rusk nói ông đồng ý. Forestal liên lạc với ông Gilpatric và xin ông ấy thuận, lại nhấn mạnh rằng Tổng Thống và ngoại trưởng Rusk đã thuận rồi. Forrestal, cũng như ba viên chức bộ Ngoại Giao, không màng nhắc đến điều kiện của sự chấp thuận của Tổng Thống, khiến ông Gilpatric cũng có cảm tưởng rằng người ta xin sự đồng ý của mình cho có lệ để thông qua một chính sách mà Tổng Thống đã chọn. Vì thế Gilpatric đồng ý.

            “Để tránh cho bên CIA khỏi có cảm nghĩ họ bị bỏ qua không hỏi ý, Harriman đã tiếp xúc với phó giám đốc CIA đặc trách về Kế Hoạch là Richard Helms, thay vì cố tìm gặp chính Giám Đốc là John McCone là người nhiệt liệt ủng hộ Diệm. Harriman bảo Helms rằng Tổng Thống đã chọn một con đường hành động mới cho Nam Việt Nam. Nhưng ông ta không xin ý kiến của ông Helms hay của CIA, trước khi cáo từ.

            “Những tác giả bản công điện đã không tìm sự đồng thuận của Chủ Tịch Ban Tham Mưu Hỗn Hợp là đại tướng Maxwell Taylor vì ông này cũng là người ủng hộ ông Diệm một cách mạnh mẽ.

            “Nếu như các ông McNamara, McCone và Taylor được tiếp xúc để hỏi ý, hoặc nếu như những kẻ thảo công điện cho các ông Rusk và Gilpatric biết rõ ý của Tổng Thống một cách đường hoàng, thì chắc công điện đã không bao giờ được gửi đi. Vì các ông McNamara, McCone và Taylor rất kính trọng ông Diệm. Sau này khi biết cái thủ đoạn gian trá này, các ông đã nổi trận lôi đình.

            “Ngay tối hôm ấy bản công điện đã được gửi cho đại sứ Lodge.” (trang 238)

            Tác giả mô tả ông Lodge là người bị ảnh hưởng nặng của nhóm phóng viên trẻ chỉ muốn hạ ông Diệm. Ông quyết ra tay. Nhưng âm mưu bị bại lộ, vì ông Nhu biết được và đề phòng. Vì vậy tất cả công điện liên quan đến âm mưu đảo chính vào cuối tháng 8 bị thiêu hủy hết.

Chương 11: Tự hủy: Từ tháng 9 đến
ngày 2-11-1963

            Sau âm mưu đảo chính bất thành, hàng ngũ lãnh đạo cao cấp tại Hoa Thịnh Đốn chia hẳn làm hai phe. Harriman, Hilsman, George Ball và Forrestal tiếp tục tấn công ông Diệm. Phe bênh ông Diệm gồm những nhân vật quan trọng hơn như Robert McNamara, Maxwell Taylor, Robert Kennedy (bộ trưởng Tư Pháp) và McCone, không kể đại sứ Nolting và William Colby, và cả Phó Tổng Thống Lyndon B. Johnson. Tác giả cũng nêu tên cố vấn Anh, Sir Robert Thompson ở Sài Gòn.

            Mặc dù sự lươn lẹo xảo trá của nhóm Harriman đã khiến Tổng Thống không tin họ nữa, ông vẫn không dứt khoát ngả về bên nào. Vì dư luận báo chí quá bất lợi qua vụ khủng hoảng Phật Giáo khiến Tổng Thống cũng phải nương theo mà tuyên bố bất lợi cho ông Diệm. Trả lời ký giả Walter Cronkit trong một cuộc phỏng vấn, Tổng Thống Kennedy nói: “Chúng ta sẵn sàng tiếp tục giúp họ. Nhưng tôi nghĩ sẽ không thắng được trận giặc, nếu nhân dân Việt Nam không ủng hộ những nỗ lực của chính quyền. Và theo ý tôi, trong những tháng qua chính quyền (Sài Gòn) đã xa rời dân. Chúng ta đã thấy cuộc đàn áp các Phật tử thật là không khôn ngoan.”

            Hết tin ở ông Lodge, Tổng Thống gửi sang Sài Gòn một phái bộ thanh tra tại chỗ gồm tướng Victor Krulak, thuộc Thủy Quân Lục Chiến, và Joseph Mendenhall thuộc bộ Ngoại Giao do Harriman và Hilsman để cử.

            Phúc trình của Krulak dựa vào lời khai của 87 người Mỹ và 22 người Việt trên khắp 4 vùng chiến thuật hoàn toàn có lợi cho ông Diệm. Còn báo cáo của Mendenhall thì cũng tốt nhưng không hoàn toàn có lợi. Tác giả Mark Moyar trưng dẫn nhiều nguồn tin khác chứng minh tình hình an ninh hoàn toàn đúng như phúc trình của Krulak.

            Về các Ấp Chiến Lược, thì tốt ở 3 vùng 1, 2 và 3. Nhưng tại vùng 4 thì có một số ấp bị Việt Cộng phá. Những ấp này phần lớn thuộc tỉnh Long An, cạnh thủ đô, được báo chí Mỹ quan tâm nhiều.

            Khi Tổng Thống Kennedy gặp tướng Krulak và Mendenhall ngày 10-9-63 để nghe báo cáo, thì tình cờ cũng có mặt Rufus Phillips. Ông này đã đề nghị Tổng Thống nên loại ông Nhu và giữ lại ông Diệm.

            Những lời của Mendenhall và Phillips khiến Mc-Cone phản ứng kịch liệt, vì ông có cả một mạng lướt thu thập tin tức tình báo đầy đủ hơn họ nhiều. Cuối buổi họp ông khẳng định: “Sĩ quan Việt Nam sẽ làm việc với ông Nhu”.

            Về phía đại sứ Lodge, ông cố tìm cách hạn chế quyền hành của ông Nhu và đề nghị đưa ông Thuần lên làm thủ tướng. Nhưng ông Diệm không muốn chịu áp lực của Mỹ. Ông bảo ông “không muốn bị coi như bù nhìn hay tay sai của Mỹ”.

            Sau khi gặp Tổng Thống Diệm đại sứ Lodge lại tìm mọi cách lật ông. Thấy trưởng nhiệm sở CIA là Richard- son báo cáo thuận lợi cho Diệm, Lodge liền tự tay đánh máy bí mật bản đề nghị triệu hồi ông này về Mỹ. Hal-berstam dùng ảnh hưởng của mình hỗ trợ cho mưu toan của Lodge.

            Trong lúc Kennedy chán ngấy Halberstam đến tận cổ, một nhà báo uy tín mà Kennedy vốn có cảm tình là Joseph Alsop đưa ra những nhận xét hoàn toàn tốt đẹp về tình hình an ninh tại Nam Việt Nam, gián tiếp kết tội các nhà báo Mỹ ở Sài Gòn đã không khách quan, đặc biệt là Halberstam: “… Such optimistic sources are almost never quoted by Halberstam” (Những nguồn tin lạc quan như thế hầu như chẳng bao giờ được Halberstam trưng dẫn).

            Kennedy mời chủ báo New York Times ăn trưa và ngỏ ý muốn đưa Halberstam ra khỏi VN. Nhưng Arthur Sulzberger từ chối vì không muốn bị mang tiếng là chịu áp lực của chính quyền.

            Trong chuyến đi thăm Việt Nam, McNamara và Taylor đã cùng với đại sứ Lodge đến thăm TT Diệm. Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ nêu lên dư luận Mỹ đang bất lợi cho chế độ miền Nam, nếu không có thay đổi, cải tiến… Nhưng khi về Mỹ hai ông đã báo cáo tình hình Việt Nam rất tốt đẹp, đến nỗi vào cuối năm có thể rút về 1000 cố vấn. (trang 254)

            Tuy nhiên (trước dư luận bất lợi của nhân dân Mỹ do báo giới gây nên) McNamara khuyến cáo, và Taylor cũng miễn cưỡng nương theo, rằng nên cắt một phần viện trợ để làm áp lực với Diệm, nhưng đừng để hại đến nỗ lực chiến tranh.

            Kennedy bèn ra lệnh cắt phần nào viện trợ và chỉ thị cho Lodge tránh khuyến khích đảo chính, nhưng phải tiếp xúc để tìm ra người thay thế lãnh đạo.

            Trái với điều Kennedy mong muốn, tin Mỹ cắt viện trợ làm mất hẳn uy tín của chính phủ Sài Gòn. Những khó khăn về kinh tế khiến viên chức chính phủ và dân chúng mất lòng tin ở chính quyền.

            Ngày 10-10-63 Lodge để Conein cho các tướng biết Hoa Kỳ không gạt bỏ sự thay đổi chính quyền và “không từ chối viện trợ cho chế độ tương lai nào được dân ủng hộ để thắng Cộng”.

            Trong hoàn cảnh khó khăn ấy, quân chính phủ vẫn thực hiện nhiều cuộc hành quân thắng lợi, mà chính Halbertstam cũng phải công nhận.

            Ngày 22 tháng 10, tại một buổi tiếp tân của tòa đại sứ Anh, đại tướng Harkins đã cảnh cáo tướng Đôn rằng ông không tán thành một cuộc đảo chính. Tướng Đôn làm bộ không biết gì về âm mưu đó.

            Theo báo cáo của CIA, Tổng Thống biết Lodge đã qua mặt ông, toan tính chuyện đảo chính với các tướng Việt Nam. Ông muốn cất chức Lodge. Nhưng nghĩ Lodge sẽ là đối thủ của ông trong cuộc bầu cử tổng thống vào năm tới. Nên lại thôi.

            Ngày 27-10-63 Tổng Thống Diệm mời vợ chồng ông Lodge lên Đà Lạt ở biệt thự của Tổng Thống và đề cập vấn đề Hoa Kỳ cắt viện trợ và tố cáo John Mecklin và CIA giúp phe chống chính phủ. Nhân dịp này ông Lodge lại yêu cầu Tổng Thống Diệm cải tổ chính phủ. Tác giả viết:

            “Diệm trả lời, nguyên văn tiếng Pháp: “Je ne vais pas servir”, dịch từ chữ sang tiếng Anh là “I am not going to serve”, nghĩa là tôi sẽ không phục vụ. Lodge báo cáo về DC rằng câu trả lời của Diệm vô nghĩa và phỏng đoán rằng ông Diệm muốn nói một cái gì khác. Có lẽ không có ví dụ nào tốt hơn để cho thấy Lodge không đủ khả năng hiểu được tình hình Việt Nam vào năm 1963, bằng sự việc ông ta không hiểu nổi ý của ông Diệm là ông ta không muốn làm đầy tớ Mỹ.” (tr. 260-261)

            Trong khi phe “Diem-Must-Go” mưu toan đảo chính thì tướng Krulak, một trong những người bênh vực ông Diệm cho phổ biến báo cáo của phái đoàn lập pháp gồm 8 dân biểu do Clement J. Zablocki (DC Wisconsin) lãnh đạo.

            “Theo Zablocki thì toàn thể phái đoàn đã đồng ý như sau:

            – a. Dù có lỗi gì, dù độc đoán và dung túng hối lộ, bạo lực, thì Diệm vẫn tồn tại và đang thắng.

            – b. Không thấy có ai thay thế được Diệm – Ít nhất chẳng có ai bảo đảm được tiến bộ; do đó những hành động của những đại diện Hoa Kỳ nhằm câu kết với những kẻ mưu phản, như đã rõ trong tháng 8, là tai hại.

            – c. Thái độ của báo giới Hoa Kỳ tại chỗ phản ảnh trầm trọng đến toàn bộ chức nghiệp của họ. Họ hỗn xược, dễ bị xúc động, không khách quan và bị thông tin sai lạc. Sự chống đối họ được biểu lộ rõ nhất qua việc họ bị xua đuổi bởi nhiều nhà báo Mỹ có tinh thần trách nhiệm.”

            Sau khi họp ban tham mưu Tổng Thống Kennedy chỉ thị báo cho Lodge phải tránh đảo chính. Trong số nhiều ý kiến của những kẻ bênh người chống đảo chính, chúng tôi ghi lại đây ý của bộ trưởng Tư Pháp, bào đệ của TT Kennedy:

            “Điều chúng ta đang làm thực sự là đặt tất cả tương lai xứ này và Đông Nam Á trong tay một kẻ mà chúng ta không biết rõ. Diệm là một chiến sĩ. Ông ta không phải kẻ giống như (Tổng Thống Cộng Hòa Dominic Juan) Bosch chỉ muốn bỏ đi. Diệm là một nhân vật cương quyết và tôi nghĩ ông ta sẽ quyết chiến… Nếu đảo chính thất bại, tôi nghĩ ông ta sẽ yêu cầu chúng ta cút khỏi miền Nam Việt Nam. Như vậy chúng ta đang đi xuống con đường dẫn tới thảm họa.”

            (…)

            “Lodge nhận công điện của Bundy sáng 30-10 nhưng mãi đến tối hôm đó mới phúc đáp. Vào giờ đó ông ta biện luận rằng không nên cho các tướng lãnh biết rằng cuộc đảo chính có thể thất bại. Thực ra Lodge chẳng hề ra lệnh cho Conein chuyển thông điệp tới các kẻ làm phản như Tổng Thống đã chỉ thị ông ta phải làm.”…

            “Cũng ngày hôm đó Tướng Harkins gửi tới Hoa Thịnh Đốn 3 công điện, tất cả đều nhanh chóng tới bàn Kennedy. Harkins phản đối việc đại sứ tích cực khuyến khích đảo chính vì như thế là vi phạm đường lối chính thức của Hoa Kỳ, cũng như việc ông ta đã không cho người cầm đầu phái bộ cố vấn quân sự biết về cuộc mưu phản. Harkins nhận xét, cuộc đảo chính không chắc có thành công hay không. Và tuy có nhiều người không thích Nhu, các tướng vẫn muốn hợp tác với ông Diệm,. Không như Lodge, Harkins biết rõ về khả năng của các tướng. Ông cảnh cáo rằng Nam Việt Nam không có ai có thể thay thế Diệm một cách thích đáng. Ông quả quyết: “Qua các cuộc tiếp xúc ở đây, tôi thấy chẳng có ai có một bản lãnh mạnh như Diệm, ít nhất về mặt chống Cộng.”

            Ngày 31-10 ông Nhu gọi tướng Đính tới dinh. Tỉnh trưởng Định Tường đã báo cáo, đại tá Có, phụ tá của Đính rủ ông ta làm phản. Đính bảo ông Nhu “để tôi chém đầu tên Có”. Nhưng Nhu không cho, bảo để theo dõi…

            Ngày đó, tướng Đôn cũng tới dinh để nhắc ông Diệm về việc cải tổ chính phủ (để xin mấy ghế bộ trưởng cho các tướng). Ông Diệm bảo không cần, vì nay tình hình đã khả quan. Đúng ra ông Diệm biết các tướng chỉ hợp các chức vụ quân sự, không có khả năng chính trị. Tác giả viết:

            “Giả như hôm ấy, dù đã rất muộn, ông Diệm thỏa mãn yêu cầu của các tướng, họ đã bỏ không đảo chính nữa. Về sau Đôn nói, chính sự từ khước của Diệm đã đưa các tướng đến quyết định dứt khoát là phải làm loạn.” (tr 265)

            “Sáng 1-11, ngày ra tay, Lodge cùng với đô đốc Felt đến yết kiến Tổng Thống Diệm. Ông Diệm bảo hai người Mỹ: Tôi biết có một âm mưu đảo chính. Nhưng không biết ai sẽ ra tay.” Lodge nói: “Tôi nghĩ chẳng có gì cần lo lắng về chuyện đó”

            Ông Diệm nhờ Lodge thưa với TT Kennedy rằng ông ta sẵn sàng xem xét nghiêm chỉnh những đề nghị của Mỹ, và mong sẽ thi hành, nhưng cần có thời gian…

            Trong báo cáo, Lodge nhìn nhận câu chuyện đó và đề nghị nên hòa giải với Diệm. Nhưng ông ta đã gửi báo cáo này với khẩn độ ưu tiên thấp nhất, cho nên nó chỉ tới Hoa Thịnh Đốn nhiều giờ sau khi Bạch Ốc đã bắt đầu nhận những công điện với khẩn độ ưu tiên cao về cuộc đảo chính đã xảy ra ở Sài Gòn.

            Sáng hôm ấy, chỉ vài giờ trước khi cuộc nổi loạn khởi sự, những tay làm phản vẫn còn chưa tin ở chính mình. Tướng Khiêm, nước mắt giọt vắn giọt dài, đến gặp tướng Đính và yêu cầu ông này đừng nói với ai về điều ông ta sắp nói đây. Khi Đính hứa không nói, thì Khiêm bảo muốn hủy bỏ cuộc đảo chính… “không muốn hại ông Cụ”. Đính nghĩ mình bị Khiêm thử thách, nên nói hãy cứ tiến hành đi… Thực ra nhóm chủ trương có ý ngờ vực Đính thật, vì họ chưa cho Đính biết về các chi tiết cuộc đảo chính, cũng không mời Đính tới bản doanh chỉ huy.

            Tác giả viết:

            “Vào thời điểm này, kẻ cơ hội chủ nghĩa Đính rất có thể dụng tâm tránh một sự dấn thân dứt khoát với cả hai bên, cho đến khi có một bên tỏ ra mạnh thế hơn… Sau này Khiêm bảo Đính rằng ông ta đã bôi dầu thuốc của Tầu vào mắt để làm như khóc thật, rồi đến gặp Đính để thử lòng. Tuy nhiên lời nói của Khiêm có thể chỉ là muốn cố đánh tan mối nghi ngờ về sự trung thành của mình.” (tr 266)

            Chỉ một thời gian vắn trước khi đảo chính nổ ra ở Sài Gòn, đại tá Có đã áp đảo được sư đoàn 7.

            Ở Sài Gòn Tư Lệnh Hải Quân bị tay em giết.

            Các tướng cầm đầu đảo chính triệu tập các tướng lãnh và đại tá không biết gì về âm mưu đảo chính đến họp ở bộ Tổng Tham Mưu, bắt giữ những người họ nghi trung thành với ông Diệm trong đó có Đại Tá Cao Văn Viên.

            Lực Lượng Đặc Biệt, lúc ấy đã bị đặt dưới quyền Bộ Tổng Tham Mưu, nên hầu hết đã bị các tướng đảo chính thuyên chuyển khỏi Sài Gòn. Còn lại một số ít, theo tác giả, bị Đại Tá Lê Quang Tung ra lệnh đầu hàng, vì ông bị người của nhóm đảo chính gí súng vào đầu bắt ra lệnh.

            Lúc 4:30, Tổng Thống Diệm từ dinh Gia Long điện thoại cho Lodge.

            Tác giả viết:

            “Báo cáo chính thức trong hồ sơ của ông này (Lodge) ghi lại cuộc đối thoại như sau:

            “Diệm: Một số đơn vị đã làm loạn. Tôi muốn biết thái độ của quý quốc..

            “Lodge: Tôi không có đủ tin tức để cho ông biết. Tôi có nghe súng bắn. Nhưng không rõ tất cả sự việc. Vả lại, giờ này ở Hoa Thịnh Đốn là 4:30 sáng và chính phủ Mỹ không thể đưa ra một quan điểm.

            “Diệm: Nhưng ông chắc phải có một vài ý kiến tổng quát chứ. Dầu sao, tôi cũng là quốc trưởng. Tôi đã cố làm nhiệm vụ của tôi. Bây giờ tôi muốn làm điều gì bổn phận và lương tri đòi hỏi. Tôi tin ở nhiệm vụ trên hết.

            “Lodge: Chắc chắn ông đã làm tròn nhiệm vụ. Như tôi đã thưa với ông sáng nay, tôi ca ngợi sự dũng cảm của ông và những đóng góp của ông cho xứ sở ông. Không ai có thể lấy đi công lao về những gì ông đã làm, Giờ đây tôi lo cho sự an toàn của ông. Tôi được báo cáo là những người đảm trách những hoạt động đang diễn ra sẽ dành cho ông và em ông được sự dễ dãi ra đi khỏi nước, nếu ông từ chức. Ông đã nghe điều đó chưa?

            “Diệm: Chưa. (Ngưng giây lát, rồi) Ông có số điện thoại của tôi.

            “Lodge: Đúng. Nếu tôi có thể làm gì cho sự an toàn của ông, xin hãy gọi cho tôi.

            “Diệm: Tôi đang cố tái lập trật tự.

            “Những người chứng kiến cuộc điện đàm này nhớ là nội dung cuộc đối thoại có khác. Họ làm chứng rằng Lodge thúc giục Diệm phải ngưng chống lại cuộc đảo chính và trốn khỏi nước, và để việc ra đi được dễ dàng Lodge đã bảo sẽ cho đưa Diệm sang Phi Luật Tân bằng chiếc máy bay phản lực mới được đưa tới để đại sứ xử dụng.

            “Frederick Flott, là người đứng cạnh Lodge khi ông này nói, nhớ lại rằng đại sứ Mỹ đã bảo Diệm: “Ngài là một vĩ nhân. Ngài đã làm cho nước Ngài những điều vĩ đại. Tôi nghĩ, điều khôn ngoan cho Ngài là hãy rời khỏi nước và đừng chiến đấu thêm nữa. Tôi sẵn sàng đưa xe tôi cho Ngài dùng và một trong số những sĩ quan của tôi mà Ngài biết sẽ đến gặp Ngài. Chúng tôi sẽ kêu gọi lý trí của đôi bên để họ để Ngài được đưa tới phi trường. Vừa đúng lúc tình cờ tôi có cái máy bay này tại đây.” Flott đáng lẽ sẽ đón Diệm bằng chiếc Limousine có treo cờ Mỹ để đưa Diệm tới phi trường, tại đó ông ấy sẽ lên phi cơ của Lodge. Theo Flott, Diệm trả lời Lodge: “Không, không, ông đại sứ đang hoảng hốt rồi. Ông đã phóng đại sự nguy hiểm.” Flott nhận xét: Ông Diệm thậm chí không màng cám ơn Lodge về đề nghị đó…

            “Một cận vệ của Diệm cho biết Tổng Thống la lớn: “Ngài đại sứ có biết Ngài đang nói với ai không? Tôi xin Ngài biết cho rằng Ngài đang nói với tổng thống của một nước độc lập có chủ quyền. Tôi sẽ chỉ rời nước, nếu đó là ý muốn của nhân dân tôi. Tôi sẽ không ra đi theo lời yêu cầu của các tướng làm loạn hay của ông đại sứ Mỹ. Chính phủ Mỹ phải chịu hoàn toàn trách nhiệm trước thế giới về vấn đề khốn nạn này.”

            Sau khi không được các tướng còn trung thành tiếp cứu, hai ông Diệm, Nhu rời dinh Gia Long vào Chợ Lớn lúc 8 giờ tối. Và một giờ sau pháo binh và thiết giáp tấn công vào dinh Gia Long. Cầm đầu cuộc tấn công là Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu.

            “Sau này ông Thiệu cho biết, ông chỉ bằng lòng theo đảo chính, sau khi các tướng chủ mưu đã thuyết phục ông rằng Hoa Kỳ và các nước khác ủng hộ đảo chính và hai ông Diệm Nhu sẽ không bị giết.” (tr.271)

            Lúc 6:45 sáng hôm sau, TT Diệm ra lệnh cho Lữ Đoàn Phòng Vệ buông súng. Rồi hai anh em ông đi tới một nhà thờ gần đó. Tại đây ông Diệm gọi cho Lodge. Lodge không hề cho Hoa Thịnh Đốn biết về cuộc điện đàm này. Nhưng có hai nguồn tin khác nhau xác nhận là có. Mike Dunn, một phụ tá của Lodge có mặt tại chỗ thuật lại: Đại Sứ bảo ông Diệm ông ta sẽ cho ông Diệm tỵ nạn và làm tất cả những gì có thể. Nhưng sẽ không thu xếp được phương tiện di chuyển cho vị Tổng Thống vừa bị hạ, trái với những gì ông ta hứa ngày hôm trước là sẽ cho Diệm phương tiện để đi Phi Luật Tân. Dunn bảo Lodge anh ta sẵn sàng đi đón hai anh em ông Diệm và bảo vệ họ, không để các kẻ phản loạn làm hại. Nhưng Lodge cấm chỉ. Dunn nhớ lại: “Thật là ngạc nhiên là chúng ta đã không làm thêm gì để giúp họ!” (tr 272)

            Khi ông Diệm gọi cho các tướng lãnh đảo chính thì “Đôn hứa sẽ để hai ông ra phi trường, từ đó có thể ra ngoại quốc. Các tướng sẵn sàng một xe thiết giáp và hai xe jeep để đón hai ông ở nhà thờ (nhà thờ Cha Tam, MV). Sau khi bàn với chỉ vài cộng sự, Tướng Minh tự quyết định số phận cuối cùng của Diệm, Nhu. 7:30, khi đoàn đặc nhiệm sắp lên đường, Minh làm ám hiệu bằng tay, đã xếp đặt trước, rằng hãy giết cả hai anh em nhà Ngô.” (tr 272)

            Theo tác giả thì các tướng cũng như Lodge đều muốn Diệm phải chết, vì nếu để ông sống ông sẽ có thể trở lại cầm quyền, hay làm khó dễ cho chính phủ hậu đảo chính.

 

Hình 5: Nhân viên CIA Conein (đằng sau) và 5 tướng phản loạn Kim, Đính, Đôn, Vỹ và Xuân (từ trái qua).

            Kết thúc chương sách, tác giả viết

            “Tuy rằng Tổng Thống Việt Nam bị lật và bị giết bởi một số người Việt nào đó, nhưng trách nhiệm chính đổ lên đầu ông Lodge, và Tổng Thống của chúng ta là người đã bổ nhiệm Lodge và không chịu cách chức ông ta. Trách nhiệm cũng thuộc về một số cá nhân từng cung cấp tin tức và cố vấn về tình hình chính trị. Tôi muốn nói mấy viên chức thuộc bộ Ngoại Giao ở Sài Gòn và ở Hoa Thịnh Đốn và vài tay nhà báo thường trú ở Sài Gòn.”

            Căn cứ vào những gì tác giả đã viết ở những trang trước, ta có thể thấy rõ danh tánh của những người đó: George Ball, Averell Harriman, Roger Hilsman, Michael Forrestal, Malcolm Browne, Neil Sheehan và David Halberstam.

            Trở lên chúng tôi đã tóm tắt lời tựa và 11 chương trong số 17 chương cuốn Chiến Thắng Bỏ Lỡ. Sáu chương còn lại nói về tình hình rối ren đến hỗn loạn sau khi mọi cơ sở pháp lý của Cộng Hòa Việt Nam tan tành do cái chết của vị tổng thống đầu tiên đem lại. Nhất là vì tình hình an ninh suy sụp do chính quyền mới hủy bỏ chương trình Ấp Chiến Lược. Trước nguy cơ miền Nam bị Cộng quân thôn tính, Mỹ đã phải đem quân vào mà không có một hiệp ước song phương, cũng không do một lời yêu cầu chính thức từ phía Việt Nam. Điều này khiến đối phương có cớ tuyên truyền rằng Miền Nam đã mất chính nghĩa. Nhưng xem ra tác giả không quan tâm đến chuyện cuộc chiến mất chính nghĩa cho bằng việc Tổng Thống Lyndon B. Johnson do dự không dám dùng binh lực để quyết chiến với Bắc Việt. Vừa phần vì ông sợ Bắc Kinh can thiệp khiến chiến tranh thế giới bùng nổ. Vừa phần vì ông sợ dư luận trong nước đang bị phe Bồ Câu chi phối (chương 16, The Prize Of Victory).

            Chúng tôi xin dành để độc giả tìm đọc ở nguyên tác, hay một bản dịch đầy đủ trong tương lai.

            Sau đây xin có một vài nhận xét về những chương đã lược tóm ở trên.

            Trước hết phải nói tác giả đã để nhiều công phu tham khảo không biết bao nhiêu tài liệu hòng đưa ra những nhận định phần lớn khác hẳn lối phê phán “chính thống” của đa số sử gia và học giả Mỹ từ trước tới nay.

            Tuy nhiên cũng phải nói ngay rằng, nếu đã đọc các tác phẩm của Tổng Thống Richard Nixon (No More Vietnams), của Thống Tướng Maxwell Taylor (Swords and Plowshares), hay của học giả và sử gia Tiến sĩ Ellen Hammer (A Death In November), của giáo sư Francis X. Winters (The Year Of The Hare) và ký giả Marguerite Higgins (Our Vietnam Nightmare)… thì ai cũng thấy, nói chung, những nhận định của tác giả Mark Moyar về Tổng Thống Ngô Đình Diệm và nền Đệ Nhất Cộng Hòa không khác các vị này bao nhiêu.

            Ngoài ra cũng phải nói rằng tác giả đã ít quan tâm đến các tác giả Việt Nam đã viết về Tổng Thống Ngô Đình Diệm hay về nền đệ nhất Cộng Hòa như Giáo Sư Tiến Sĩ sử học Hoàng Ngọc Thành và phu nhân là Thân Thị Nhân Đức, Giáo sư Phạm Kim Vinh, bút hiệu Trương Tử Phòng, Luật sư cựu nghị sĩ Nguyễn Văn Chức, Giáo Sư Tiến Sĩ sử học Phạm Văn Lưu, Giáo Sư Tiến Sĩ Nguyễn Ngọc Tấn, Giáo sư Tiến Sĩ Cao Thế Dung, nhà báo Vĩnh Phúc, hay của những chứng nhân quan trọng như cựu Đại Tá Nguyễn Hữu Duệ, cựu Trung Tá Nguyễn Văn Minh, cựu Tổng Giám Đốc Viện Hối Đoái Huỳnh Văn Lang, cựu Trung Tá Nguyễn Văn Châu, nguyên Giám Đốc Nha Chiến Tranh Tâm Lý thời Đệ Nhất Cộng Hòa v.v… Có lẽ vì phần nhiều tác phẩm của những vị này đều viết bằng tiếng Việt, trừ mấy tác phẩm của hai Giáo Sư Hoàng Ngọc Thành và Phạm Kim Vinh đã được chính tác giả dịch ra tiếng Anh.

            Trong số những tác phẩm của những tướng đảo chính viết bằng tiếng Anh, có cuốn Our Endless War của Trần Văn Đôn, cũng cung cấp nhiều tài liệu chứng tỏ ông Cabot Lodge cùng với Conein chủ trương đảo chính. Bằng chứng là số tiền 3 triệu đồng bạc Việt Nam (tương đương với 42,000 Mỹ Kim lúc ấy). Hay cuốn Twenty Years Twenty Days của Nguyễn Cao Kỳ cũng cung cấp bằng chứng rõ ràng nhất là Thượng Tọa Thích Trí Quang cầm đầu nhóm tranh đấu Phật Giáo quá khích không phải vì lý do tôn giáo, mà chỉ vì mục đích chính trị. Ông muốn làm quốc trưởng, làm vua. Chúng tôi đã trưng dẫn lời ông Kỳ thuật lại chuyện Thích Trí Quang đề nghị với Cabot Lodge lật tướng Kỳ, để rồi sau đó, Thích Trí Quang sẽ đặt lại ông Kỳ vào chức thủ tướng. (Xin xem lại Phần I, chú thích số 65)

            Vì tác giả là một học giả, giáo sư sử, nên ông đã cố tìm thật nhiều bằng chứng có tính khoa bảng để thách đố các nhà khoa bảng từng có quan điểm khác ông, nên sách của ông chi chít những trích dẫn từ nhiều tác phẩm, nhiều tài liệu trong các văn khố của các chính phủ, các phủ, bộ v.v… Chứ không giống như những tác phẩm của Nixon, hay Taylor, Marguerite Higgins…

            Hơn nữa nội dung tác phẩm Triumph Forsaken quá rộng lớn vì nó bao gồm toàn bộ chiến tranh Việt Nam, chứ không phải chỉ về cuộc đảo chính 1-11-63, hay về nền đệ nhất Cộng Hoa, hay chỉ về Tổng Thống Diệm. Cho nên có nhiều chi tiết về cuộc đảo chính 1-11-63, tác giả cũng không thể thuật lại đầy đủ chi tiết. Thậm chí có một vài chi tiết, không biết ông dựa vào tài liệu nào, không đúng. Ví dụ ông bảo chiều ngày 1-11 hai anh em ông Nhu ra khỏi dinh Gia Long bằng đường hầm. Thực ra hai ông ra khỏi hầm (một thứ basement), chứ không qua đường hầm (tunnel) nào. Vì trong dinh Gia Long vốn chẳng có đường hầm nào cả. Chỗ khác ông bảo Đại Tá Lê Quang Tung bị nhóm đảo chính gí súng vào đầu bắt ông ra lệnh quân lực lượng đặc biệt đầu hàng nhóm đảo chính. Những người có mặt tại bộ Tổng Tham Mưu hôm đó cho biết khi ông Tung đứng lên phản đối cuộc đảo chính liền bị đưa ra ngoài giết chết.

            Theo thiển ý, ngoài một vài chi tiết không được chính xác, tác phẩm của Mark Moyar là một công trình biên khảo công phu, giá trị mà các nhà khoa bảng, hay học giả vốn lên án việc các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ ủng hộ Miền Nam Việt Nam chống Hồ Chí Minh phải xét lại quan điểm của mình và, nếu xứng đáng là một học giả chân chính, một nhà báo lương thiện, thì cũng nên có lời xin lỗi, hay cải chính.

            Có lẽ người mà tác giả chê trách nhiều nhất trong tác phẩm này là nhà báo, trở thành sử gia David Halberstam. Ông này đã từng ca tụng Hồ Chí Minh: “là một khuôn mặt phi thường của thời đại – một phần là Gandhi, một phần là Lê-nin, tất cả là Việt Nam. Có lẽ, hơn bất cứ nhân vật nào trong thế kỷ, ông Hồ là hiện thân cuộc cách mạng của dân tộc ông đối với dân tộc ông và cả đối với thế giới.” (Hồ, Random House, NY, 1971, trang 12).

            Cũng Halberstam đã viết: “Tito, Stalin, Khrutshchev, Mao… hết thảy đều có tật sùng bái cá nhân. Nhưng Hồ thì không…” (SĐD trang 20)

            Nếu là sử gia có lương tâm, nhà báo lương thiện, thì Halberstam khi biết chính Hồ Chí Minh đã mượn bút danh Trần Dân Tiên để tự đề cao ca ngợi mình, biến mình thành thần tượng, tự tôn mình lên thành cha già dân tộc, ắt đã phải lên tiếng hối hận mới phải. Có lẽ vì thế mà ông ta đã bị tác giả vạch mặt và quy trách trong việc Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị hạ và bị giết.

            Ngoài ông Cabot Lodge là vai chính không kể, người thứ hai bị quy trách là Averell Harriman, người đã thù ông Diệm, quyết bằng những mánh lới bất lương qua mặt thượng cấp để cố bằng mọi cách hạ uy tín và lật ông Diệm. Có người đã nghi Harriman là CS hay bị cộng sản mua chuộc trong vụ trung lập hóa Ai Lao và có thể cả trong đàm phán với CS tại hòa đàm Ba Lê đi đến một hiệp định Ba Lê rất bất lợi cho Việt Nam Cộng Hòa, mặc dầu ông không cầm đầu phái đoàn Mỹ.

            Những lời lẽ xác quyết không dè dặt của tác giả về những người phải chịu trách nhiệm trong cái chết của ông Diệm, trong đó tác giả ghi cả chính Tổng Thống Kennedy chắc sẽ gây phản ứng mạnh từ phía các học giả thuộc trường phái “chính thống”. Nhưng có thay đổi được nếp suy nghĩ của giới học giả Mỹ, chắc cũng còn phải có thời gian.

            Về mục đích chính của tác phẩm là chứng minh rằng đáng lẽ Hoa Kỳ đã thắng, nghĩa là, nếu không dẹp tan được nạn CS tại Việt Nam, thì cũng bảo vệ được Miền Nam khỏi rơi vào tay CS, phải đợi đến khi nào tập 2 xuất bản.

            Ở tập một này, có hai điều ông đã cố chứng minh. Trước hết là trận Điện Biên Phủ. Nếu Hoa Kỳ giúp chính quyền Bảo Đại và đồng minh Pháp thì đã có thể thắng. Thứ hai là nếu chính quyền Kennedy không khuyến khích, tài trợ để một số tướng lãnh giết ông Diệm, thì miền Nam đã đứng vững và sẽ chiến thắng.

            Có lẽ tác giả muốn tránh không để các học giả và sử gia Mỹ chê ông chỉ là “lý thuyết gia ý thức hệ” (tạm dịch từ ideologues của tác giả), chứ không phải sử gia, nên ông đã không (hay chưa?) minh thị nêu lên thực tại của một trận chiến ý thức hệ do Cộng Sản thế giới khởi xướng đe dọa toàn thể nhân loại, mà chỉ đặt trọng tâm vào những sự kiện lịch sử liên quan đến cuộc chiến Việt Nam mà thôi.

            Nhưng theo thiển kiến, vì cuộc chiến Việt Nam nằm trong bối cảnh chiến tranh ý thức hệ toàn cầu giữa CS và thế giới tự do, cho nên sử gia nào muốn thấu đáo về cuộc chiến Việt Nam, không thể nào không am tường về lý thuyết ý thức hệ. Nghĩa là phải vừa là sử gia, vừa là lý thuyết gia ý thức hệ.


13

Xin cứu chúng tôi khỏi
sự dữ[41]

 

 

 

N

ăm 1956 có một điều mà dân di cư nên nhớ. Đó là sự ra đời của cuốn sách viết về cuộc di cư vĩ đại năm 1954-1955 được Farrar, Straus and Giroux xuất bản tại Hoa Kỳ lần đầu tiên nhan đề Deliver Us From Evil (xin cứu chúng tôi khỏi sự dữ). Chỉ trong 11 năm nó đã được tái bản đến 20 lần. Bản mà chúng tôi đọc được ghi in lần thứ 21, năm 1967. Gần 30 năm qua nó đã được in lai mấy lần nữa thì chúng tôi không rõ. Nhưng theo Seth Jacobs, tác giả cuốn America’s Miracle Man in Vietnam, thì số lượng ấn bản đã lên đến nhiều triệu cuốn.

            Tác giả là một trung úy bác sĩ hải quân tên là Thomas A. Dooley, sinh ngày 17-1-1928 và mất ngày 18-1-1961, vì bị ung thư khi mới vừa tròn 34 tuổi. Sau khi ông mất, viện thăm dò Gallup cho biết kết quả là ông đứng hàng thứ 3 trong số những nhân vật nổi tiếng nhất thế giới, chỉ sau Tổng Thống Dwight Eisenhower và Đức Giáo Hoàng. Được tin buồn, Tổng Thống Eisenhower đã gửi công điện cho thân mẫu người quá cố trong đó Tổng Thống tuyên bố: “Có ít người, nếu không muốn nói là không có ai, sánh ngang hàng với Dooley về sự biểu lộ lòng can đảm, sự hy sinh bản thân, niềm tin nơi Thượng Đế và sự sẵn sàng phục vụ người khác.” Quốc Hội đã tặng ông huy chương Danh Dự. Tổng Thống Kennedy vừa tuyên thệ nhậm chức tặng ông huân chương Tự Do.

            Năm 1954, ông gia nhập toán đặc nhiệm lo công tác y tế cho đồng bào di cư, hay đúng ra chuẩn bị di cư, tại một trại ở Hải Phòng, đón tiếp đồng bào thoát được vùng CS để vào Nam theo hiệp định Genève. Trại này có cái tên là “Camp de la Pagode” (tạm gọi là Trại Chùa). Ông làm việc hết sức vất vả, tận tâm, không nề hà công tác nặng nhọc khó khăn đến đâu, để chữa trị cho dân tỵ nạn, mỗi ngày trung bình chữa cho 200 đến 300 người.

            Ông từng theo học trường đại học nổi tiếng Sorbonne của Pháp, nên “bất cứ cái gì của Pháp tôi đều thích”. Những bệnh của đồng bào tỵ nạn mà ông phải chữa trị ở Hải Phòng, trước khi cho họ vào Nam, gồm đủ mọi tật bịnh trong số đó có những bệnh ông chưa từng được đọc trong sách hay nghe dạy tại các trường.

            Việc làm của ông và cơ duyên với đồng bào di cư đã cho ông có dịp chứng kiến hay nghe kể lại nhiều chuyện vô cùng thương tâm của đồng bào miền Bắc trong vùng bị CS chiếm đóng, và những thủ đoạn gian xảo, tàn ác của Việt Minh Cộng Sản nhằm đàn áp đồng bào theo đạo Ki-tô, và/hay ngăn cản đồng bào ra đi vào Nam bất chấp quy định của hiệp định Genève.

            Cuốn sách chỉ có 214 trang. Nhưng nó chứa đầy dẫy những tội ác của CS. Ở đây, chúng tôi chỉ xin tóm dịch một vài đoạn. Riêng chương XV về các biện pháp dã man CS dùng “cải hóa” người dân, nhất là giáo dân, thì chúng tôi trích dịch hầu hết, để độc giả nhớ lại thời kỳ xa xưa, đã trên một nửa thế kỷ, hầu hiểu thêm những khó khăn vô bờ bến mà chính quyền Ngô Đình Diệm phải giải quyết ngay những ngày đầu.

            Đọc hết cuốn sách này, chúng tôi không hề thấy tác giả nhắc đến hay thuật lại lời chứng của ai trong số hàng chục ngàn người mà ông được gặp và chữa trị nói về những truyền đơn của Hoa Kỳ, đặc biệt là của nhóm đặc nhiệm của đại tá Landsdale kêu gọi “đồng bào hãy rời bỏ miền Bắc, vì Chúa và Đức Mẹ đã vào Nam rồi!”, như một số người đã loan tải vì một lý do nào đấy.

            Trái lại, tác giả đã nhắc nhiều lần đến những truyền đơn của CS tha thiết kêu gọi đồng bào đừng nghe lời dụ dỗ của kẻ xấu mà di cư vào Nam, vì vào đến đó sẽ bị khổ cực, đàn ông phải đi làm phu đồn điền, phụ nữ bị bán cho tư bản làm thê thiếp, trẻ con bị Mỹ chặt tay, trẻ sơ sinh bị lính Mỹ giết “rán ăn điểm tâm” v.v… Đọc những đoạn trích dịch dưới đây bạn đọc sẽ thấy Tổng Thống Diệm và chính phủ của ông, cũng như những người Pháp, người Mỹ có cảm tình với nhân dân Việt Nam đang bị ách cai trị hà khắc của Việt Cộng không cần phải kêu gào, mời gọi hay hứa hẹn gì, mà người ra đi cũng nườm nượp đến nỗi các phương tiện chuyên chở cùng các biện pháp cứu trợ không thể nào đáp ứng kịp. Hãy cứ tưởng tượng gần một triệu người thuộc đủ thành phần xã hội, mà đại đa số là nghèo đói, bịnh tật tuốn vào miền Nam chỉ trong vòng 300 ngày đòi hỏi biết bao công sức để tiếp đón, vận chuyển và cung cấp thuốc men, nhà ở, phương tiện sinh sống v.v…

            Nguyên do không phải sự đe dọa hay hứa hẹn hoặc tuyên truyền bằng mánh lới như nhiều người bịa đặt hay tưởng tượng ra mà chính là vì sự đàn áp dã man, sự tra tấn man rợ chưa từng thấy của VMCS đối với những người theo đạo đủ làm cho người dân nô nức ra đi để tránh tai nạn, và được tự do thờ Chúa.

            Ngày nay, đã hơn nửa thế kỷ sau, giữa lúc Hà Nội đang cần chứng tỏ với thế giới là họ tôn trọng nhân quyền hòng được sớm vào WTO mà ta còn thấy công an đàn áp, tra tấn, đánh đập các đạo hữu Hòa Hảo, Tin Lành, điển hình là vụ bạo hành mục sư Chính tại Cao Nguyên. Còn vào thời điểm đó, Bắc Việt còn bị bưng bít hoàn toàn với thế giới bên ngoài, và liền sau chiến thắng Điện Biên, họ được toàn quyền làm chủ một nửa nước. Vì vậy những chuyện kể trong tác phẩm của Dooley rất đáng tin.

            Ngay ở phần đầu sách tác giả đã cho biết về chuyến tầu đầu tiên đến Sài Gòn:

            “Thuyền trưởng Cox chính thức báo cáo: Tầu chở 2061 người. Có hai người chết trên tầu và hai cuộc thủy táng. Bác sĩ Dooley chủ trì 4 ca đỡ đẻ trên tầu. Tất cả mẹ tròn con vuông. Một cháu bé đã mang tên chiếc tầu với mình suốt đời, do cha mẹ cháu nghĩ ra một cách đầy mơ mộng: TRỊNH VĂN AKA MONTAGUE 98 NGHIÊM.”

            Về sinh hoạt của Trại Chùa, ông viết:

            “Trại tỵ nạn đầu tiên của chúng tôi trở thành trung tâm thu hút nhiều khách quý: Đô đốc Sabin và thiếu tướng (hải quân) Walter Winn, người thay đô đốc Sabin trong chức vụ tư lệnh lực lượng đặc trách; tướng J. Lawton Collins, nguyên tham mưu trưởng Lục Quân Hoa Kỳ, đại diện cá nhân Tổng Thống để giải quyết các khó khăn rắc rối tại Việt Nam; tướng O’Daniel, tục gọi “Mike, người sắt thép”, trưởng toán cố vấn và viện trợ quân sự ở Sài Gòn, và nhiều nhân viên chữa lửa khác thường tới thăm cái trại bùn lầy nước đọng này.

            “Vị thống đốc người Việt của vùng đất nhỏ bé của chúng tôi là một nhà ái quốc tên là Nguyễn Luật. Ông đã thụ huấn ở Pháp, và đã chọn trở về quê hương VN. Trước cuộc chiến ông từng là chủ bút một tờ nhât báo ở Hà Nội. Trong chiến tranh ông đã chiến đấu với người Pháp với cương vị một sĩ quan. Gần như tuần nào ông cũng tới trại nói chuyện với dân và nâng cao tinh thần của họ.

            “Thị trưởng thành phố Hải Phòng là Mai Văn Bột năng tới trại. Ông là con người giản dị và tốt lành, người Mỹ nào biết ông đều yêu mến.

            “Những kẻ đến viếng trại mà không được yêu mến chính là những tên tay sai của Việt Minh CS. Ngày nào chúng cũng tới. Thấy chúng dân tỵ nạn liền chỉ tay nghi ngờ. Họ bảo chúng tôi: “Trong trại Chùa, lều số 5B có một kẻ nói rằng chúng tôi đến đây là một lầm lỗi to. Nó bảo chúng tôi phải quay về ngay lập tức để chiến đấu cho những nhà ái quốc chân chính, tức Việt Minh. Kẻ đó lạ lắm.”

            “Cảnh sát cứ vài ngày lại bắt gặp những kẻ lạ đó ở trong trại.

            “…

            “Sau vài tuần sau ngày dựng lều, Trại Chùa đã bắt đầu sinh hoạt đều đặn và trở thành một cộng đồng riêng. Chúng tôi đã có danh xưng riêng; có một cơ quan quản trị riêng, chúng tôi có bệnh viện riêng, với những y tá quân y và cả những cô y tá răng đen nhai trầu nữa. Và chúng tôi cũng có những cửa hàng bán hàng xén. Khẩu phần ăn hàng ngày là 600 gram gạo, cân đo tỉ mỉ, vài con cá và khi có thể thì cũng có một món đặc biệt thêm vào.

            “Tôi quên không nói đến nhà thờ… Mỗi buổi sáng sớm đều có lễ cho trên 10 ngàn người dự. Tôi chắc chắn Chúa nghe lời họ cầu nguyện. Họ không xin Chúa ban ơn gì. Họ không hỏi Chúa sẽ đưa con cái họ tới đâu. Nhưng họ cám ơn Chúa qua những lời kinh và tiếng hát mạnh mẽ. Cám ơn Chúa đã cho họ tự do.”

 

            Đầu chương IX tác giả cho biết:

            “Tại lều vải bệnh xá trong trại Chùa, hàng ngày tôi phải chữa từ 300 đến 400 bệnh nhân trong tình trạng khẩn cấp với nhu cầu tuyệt đối. Không chữa được thì để họ chết dần, hay trả họ về nguyên quán với Việt Minh sao?”

            Về một ca bệnh đậu mùa. Dooley nói với ông đại úy bác sĩ “thủ trưởng”:

            “Thưa bác sĩ, chúng ta phải cố làm gì cho những bệnh nhân này chứ? Luật là luật. Nhưng chúng ta không thể trả người đàn bà này và đứa trẻ lại cho cộng sản, chỉ vì lẽ đứa trẻ bị bệnh đậu mùa. Chúng ta phải trị khỏi bệnh cho đứa bé để gia đình nó được lên tầu.”

 

            Chương X nói về uy lực của tuyên truyền CS như sau:

            “Cộng sản không ngừng nhồi nhét vào đầu người dân những chuyện về người Pháp và người Mỹ thường bắt cóc người dân Bắc Kỳ. Cộng Sản bịa ra những chuyện như thế hết giờ này qua giờ khác, hết tháng này qua tháng khác. Tất cả thanh niên nam nữ đều phải bắt buộc dự những lớp học tập cải tạo mỗi buổi sáng. Nơi đây những viên chính ủy nhắc đi nhắc lại những chuyện về sự độc ác dã man của người Mỹ.

            “Đối với dân quê chất phác, chuyện nghe ra hợp lý, có thể tin. Người Mỹ được biết như là giống người bị ám ảnh bởi vệ sinh sạch sẽ quá đáng. Vì vậy có lẽ họ sẽ chặt tay những kẻ nào thổ mửa trên tầu của họ, v.v…”

            “… Nhiều dân ty nạn không ngừng sợ sệt người Mỹ làm hại mình, nhất là khi vào khám bệnh hay chữa bệnh trong lều bệnh xá. Đến nỗi tác giả phải đưa ra trị hay khám bên ngoài lều cho mọi người trông thấy mà quan sát và thấy rằng ông không làm hại ai. Trái lại những mũi thuốc trụ sinh hay kháng sinh chích vào rất công hiệu và bệnh mau lành, như vậy mới làm cho dân hết sợ. Nhưng lại có những cái sợ khác như khi tầu há mồm đến đón, dân không dám lên, vì sợ bị nuốt mất. Đến nỗi phải có một linh mục leo lên trước rồi vác loa giải thích kêu gọi dân mới dám leo lên theo…”

            Một mục trong chương trình văn nghệ của đài Hà Nội mang tên là “Đây là một người Mỹ” mà tác giả nghe được có đoạn như sau:

            “Đầu nó là một cái lô-cốt. Râu nó là dây kẽm gai. Mắt nó là hai quả bom. Răng nó là những viên đạn đum-đum. Cánh tay nó là 2 khẩu súng và mũi nó thở ra lửa. Nó hút máu trẻ con như ma cà rồng. Trán nó là ổ súng đại bác và thân thể nó là sân bay. Ngón tay nó là những lưỡi lê, và bàn chân nó là 2 xe tăng. Nó nhe răng đe dọa, nhưng trong cái mồm xấu xí của nó nó chỉ có thể nhai sắt vụn, bởi vì nó bị lực lượng oai hùng của nhân dân ta chống đối mãnh liệt. Như thế đủ biết bọn Mỹ chỉ là tên khổng lồ bằng giấy”.

            “Tuyên truyền của Việt Minh bắt đầu ảnh hưởng cả đến (ICC) ủy hội Quốc Tế Giám Sát Đình Chiến gồm người Ba Lan, Ấn Độ và Gia Nã Đại, do hiệp ước Genève quy định. Người của ủy hội hay tới trại của chúng tôi để điều tra về những điều CS cáo buộc rằng người Mỹ làm điều nọ, điều kia có hại cho dân tỵ nạn. Có lần họ điều tra về cáo buộc người Mỹ bỏ thuốc độc vào nước uống. Lần khác về chuyện bịa đặt là chúng tôi xịt vào người dân thứ bột thuốc làm họ không thể có con. Trong khi thực ra là chúng tôi có xịt vào họ thứ thuốc sát trùng DDT để làm cho những con chấy con rận không sinh sôi nảy nở được đó mà.

            “Và đây là sự bịa đặt của Thông Tấn Xã Hà Nội phát thanh ngày 27-11-1954:

            “Lực lượng Liên Hiệp Pháp và tay sai đế quốc Mỹ đã bằng mọi cách đi lùng bắt và bắt cóc xung quanh Hải Phòng, ép buộc dân phải di tản vào Nam. Lúc 9 giờ tối qua, chúng động viên cảnh sát đến bao vây phố Du Hang (?) và bắt đem đi 50 thanh niên. Chúng tuyên bố một cách vô liêm sỉ rằng những thanh niên này phải đăng ký vào lính, bằng không sẽ phải đưa vào làm lao công ở các đồn điền cao su miền Nam.

            “Trong 5 ngày bọn tay sai đế quốc đã bắt giữ 117 tài xế xích lô và đưa vào Nam. Theo thống kê chưa đầy đủ, 551 người ở Hải Phòng đã bị bắt trong 21 cuộc ruồng bố trong một tháng.

            “Tại tỉnh Kiến An cũng có 3 cuộc bố ráp trong cùng thời gian và 99 người đã bị bắt giữ, trong khi tại Quảng Yên nhiều người khác cũng là nạn nhân của những hành động tương tự…”

            Và sau đây là kết quả của những luận điệu tuyên truyền của CS đối với dân tỵ nạn:

            “Trong toán di dân đầu tiên tới trại có mấy trẻ con. Khi chúng đến bên Ed, anh này bèn xịt thuốc DDT vào chúng. Người mẹ liền dùng đòn gánh tấn công Ed túi bụi. Vì bà ta đã từng nghe nói người Mỹ độc ác, dã man. Tôi bật cười rũ rượi, đến không còn nhớ chuyện gì xảy ra sau đó. Nhưng tôi nghĩ lại, sau khi bị một hay hai đòn, Ed đã khóa tay được người đàn bà, và ông trưởng trại và thuộc hạ đã ngăn được trận ẩu đả. Rồi thì Ed quay lại xịt thuốc DDT vào các y tá của anh ta để chứng tỏ cho người đàn bà thấy rõ thứ bột trắng này không làm hại ai.

            “Chính tôi cũng nhiều lần bị đánh, và không phải chỉ bị đánh nhẹ đâu.

            “Một ngày kia một bà bồng đến cho tôi chữa một đứa bé sơ sinh mình mẩy đầy ung nhọt. Penicilline là thứ thuốc thần chống những ung nhọt và mụn ghẻ. Chuyện đó là thường. Tôi chích cho đứa hài nhi một mũi vào mông và bảo ngày mai mang cháu lại.

            “Nhưng chỉ vài giờ sau tôi nghe có tiếng la hét chửi rủa và thấy người đàn bà giơ cao đứa con cho mọi người thấy. Rõ ràng đây là bằng chứng tôi là một con quái vật Mỹ. Đứa trẻ đã bị phản ứng của thuốc, coi thật dữ tợn tuy vô hại. Người đàn bà điên cuồng không chịu nghe bất cứ lời giải thích nào. Bà ta đưa con cho người đứng bên rồi giật lấy cái gậy to tướng và gọi cả tá “cảm tình viên” tới. Khi Baker, cuối cùng giải cứu được tôi thì tôi đã bị gẫy mấy cái xương sườn, mắt bầm tím và nhiều vết bầm ở những nơi khác trong thân thể.

            “Hôm sau, toàn trại đứng xem tôi đơn thương độc mã, tay không vũ khí dẫn thân tới lều của người đàn bà. Như tôi đã tiên liệu, những vết tổ ong trên thân thể đứa bé đã biến mất, và những ung nhọt kinh tởm hôm trước đã lành. Người đàn bà òa khóc quì xuống ôm chân tôi để xin tha thứ. Bà ta ở lại trại liền mấy tuần để cùng với một số người khác phục dịch công tác y tế, lúc nào cũng nôn nóng muốn khoe đưa con sạch sẽ lành lặn của mình. Ảnh hưởng tốt đối với dân di cư là phần thưởng cho tôi bù lại những cái xương sườn bị gẫy…”

Câu chuyện của làng Cửa Lò (chương XI)

            Hải quân Pháp luôn luôn trong tình trạng báo động theo dõi các thuyền bè chở người tỵ nạn trong vùng tự do. Họ có tầu tuần tiễu và thủy phi cơ liên tục tìm kiếm những thuyền bè nào xem ra có vẻ muốn tìm nơi trú ẩn.

            Trong những tháng đầu người tỵ nạn thường đi thuyền trôi theo các nhánh sông vào cảng Hải Phòng. Nhưng khi sự tuần tiễu kiểm soát của Việt Minh thắt chặt lại thì điều đó không thể thực hiện được nữa. Thế là những người can đảm hơn dùng những thuyền bè nhỏ bé không thích hợp cho những chuyên đi biển để liều giăng buồn nhắm tới Hải Phòng.

            Thuyền trưởng Gerald Cauvin của hải quân Pháp đặc trách công tác đặc biệt này, và thông báo cho chúng tôi biết hoạt động của ông. Điều này giúp chúng tôi rất nhiều vì nó cho tôi biết trước những gì đang chờ chúng tôi.

            Một buổi sáng sớm, Cauvin sai một người tới trại của chúng tôi để chở tôi ra bến tầu của hải quân Pháp. Ông bảo mới nhận một tin vô tuyến cho biết có 14 chiếc thuyền lớn ở ngoài khơi vịnh Hạ Long.

            Ông đã phái một chiếc tầu Pháp, chiêc LSM, tới đón đoàn thuyền đó để đưa vào Hải Phòng. Tôi báo động cho trại biết phải sẵn sàng đón nhận khoảng 500 người rất ốm yếu (thực ra là trên 1100 người). Rồi đại tá Cauvin và tôi lên tầu LSM đi 4 giờ trên sông tới vịnh. Chiếc thủy phi cơ tìm ra đoàn người tỵ nạn đã trở về Hải Phòng.

            Chúng tôi tới vịnh khoảng trưa. Hoàn toàn yên lặng.

            Đoàn thuyền nối đuôi nhau, chiếc nọ sau chiếc kia, đã vào vịnh rồi. Nhiều chiếc tụm vào nhau, hay đầu chiếc này được cột chặt vào đuôi chiếc kia. Khi tới gần, chúng tôi dùng ống nhòm quan sát. Ánh nắng rực rỡ trên mặt nước xanh trong, phong cảnh như trong truyện thần tiên. Nhưng những gì chúng tôi thấy chẳng có gì đẹp như truyện.

            Chen chúc như cá trong hộp, trên 14 chiếc thuyền, bè mỏng manh là hơn một ngàn dân tỵ nạn. Họ đã vượt 200 dặm biển Nam Hải dậy sóng một cách không thể nào tin được. Họ đã dùng những chiếc thuyền đánh cá nhỏ bé (nối đuôi nhau, có nhiều chiếc cột lại với nhau, đầu chiếc này gắn vào đuôi chiếc kia), bất chấp mọi hiểm nguy, và đã thực hiện điều hầu như bất khả thi. Mặc dầu lúc ấy trời nắng ấm, mà tất cả đều ướt sũng và lạnh cóng. Biển cả đã làm họ kiệt quệ vì say sóng. Họ đã thổ mửa tới mật xanh mật vàng. Ngay từ xa bạn cũng có thể thấy họ bị lạnh buốt đến xương tủy. Có những người đi đi lại lại để giúp đỡ nhau chống chọi với đau ốm. Nhưng nhìn vào toàn cảnh thì đó là một khối bất động, nằm la liệt trên sàn thuyền.

            Dường như đoàn người đó đang chuyển động trong một cuốn phim quay chậm. Luôn luôn bị ướt sũng vì nước mặn suốt cả ngày, da họ bị khô và ánh nắng gắt đã làm nó nứt ra. Luôn luôn bị ngâm trong nước mặn, bàn chân và mắt cá chân của họ sưng húp lên. Chúng tôi có thể cảm thấy nổi khốn khổ của họ ngay cả trước khi đụng vào người họ.

            Khi chiếc LSM của chúng tôi tới gần đủ để họ nhận ra lá cờ Pháp ở mũi tầu thì một điều ấm lòng xảy ra. Biết rằng chúng tôi là bạn chứ không phải là thù, họ bèn kéo một tấm vải ướt sũng mà họ đã giấu kỹ nhiều năm lên đỉnh cột buồm cao nhất. Đó lá cờ của giáo hội Công Giáo.

            Khi chúng tôi tới sát bên họ, những bàn tay người Pháp giơ ra và thò xuống để giúp đưa họ lên tầu. Hầu hết họ đều lên tầu của chúng tôi. Chỉ một số người còn tương đối khỏe mạnh ở lại trên vài chiếc thuyền bé nhỏ của họ đã được cột sát vào hông tầu LSM để cùng vào Hải Phòng.

            Chúng tôi cho họ dùng trà, nước và bánh ngọt Pháp. Tuy không đủ, nhưng cũng giúp phần nào. Chiếc LSM nhỏ bé với vài chục thủy thủ không mang theo nhiều đồ ăn. Phải chi tôi biết nghĩ trước là nên mang theo một trăm bì cơm thì hay biết mấy.

            Cauvin và tôi thấy mấy người lớn tuổi có vẻ là những thủ lãnh trong đoàn người này. Tôi đưa họ vào phòng và hỏi: “Các ông từ đâu tới? Cuộc sống trong làng các ông ra sao? Tại sao các ông tới đây? Các ông là ai?”

            Họ kể cho chúng tôi nghe câu chuyện của họ với giọng buồn rầu thận trọng, dè dặt, như thể họ đã kể chuyện đó cả ngàn lần rồi. Bằng một thứ tiếng Pháp khá chuẩn, nhưng giọng nói đều đều buồn chán, họ cho chúng tôi biết về cuộc đời họ. Hai chúng tôi chăm chú nghe trong 3 giờ đồng hồ.

            Câu chuyện chẳng có gì đặc biệt mới. Chúng tôi đã từng nghe những người trốn thoát khác nói rồi. Nhưng ở đây có một sự cay đắng làm cho người nghe thương cảm khác thường. Cuộc vượt thoát của họ được hoạch định và thực hiện mà hoàn toàn không có một sự trợ giúp nào từ bên ngoài. Duy nhất chỉ có hai lợi khí cổ điển: niềm tin và hy vọng.

            Dù rằng giờ này đây (1956, MV) tôi ở cách xa hàng ngàn dặm, và đã xa cách hàng ngàn giờ, tôi vẫn còn nhớ một cách sống động từng lời nói của họ. Mấy ông già với bộ mặt nhăn nhó, phờ phạc ngồi đối diện hai chúng tôi, uống trà đậm, rồi lưỡng lự nói nhỏ nhẹ:

            “Làng chúng tôi tên là làng Cửa Lò. Khoảng 300 cây số về phía nam, ở bờ biển. Những năm trước đây là một ngôi làng hạnh phúc. Đất bằng phẳng chia làm vô số mảnh ruộng lúa xanh tươi. Trong mùa mưa gió, những đám mây trôi nhanh trên bầu trời u ám. Đến mùa nắng ấm mặt trời sáng rực trên bầu trời xanh dương. Các ông có thể thấy dân làng chúng tôi làm việc suốt ngày ở ngoài đồng, tát nước vào ruộng, hay cầy bừa trên những bãi bùn lầy, theo sau những con trâu giẫm bước kêu ì ọp.

            “Ai không làm ruộng thì đánh cá. Những chiếc thuyền đưa tới đây là của dân đánh cá đó. Những chiếc thuyền này khá vững chãi, có 2 cột buồm và những cánh buồm màu. Nhưng chúng được đóng thô sơ mà không nhắm chịu đựng được sóng gió của biển khơi.

            “Kẻ thù bắt đầu cai trị chúng tôi từ 1951. Họ áp dụng luật lệ mới. Họ viết lịch sử mới. Và áp đặt một lối sống mới, lối sống cộng sản. Nhưng cộng sản lại nói đó là chủ nghĩa ái quốc Việt Minh. Bây giờ có hòa bình nhưng là thứ hòa bình buồn tẻ, không vững chắc. Ngay cả chúng tôi là những viên chức chế độ cũ, thường được coi như có hiểu biết củng thấy thật khó hiểu.

            “Ngày nay bất cứ cái gì liên quan đến người Pháp trước kia đều bị hoen ố. Trước mắt những sử gia mới tất cả những gì người da trắng làm đều là xấu xa. Cả những điều tốt lành họ đã làm đều là xấu tất, vì đã được làm vì lòng ích kỷ bẩn thỉu.

            “Quả thật người Pháp đã đưa vào Việt Nam khoa học về y tế, và mở những chiến dịch chống bệnh truyền nhiễm. Nhưng VC bảo Pháp đã làm điều ấy để có được những phu khoẻ mạnh và những tên nô lệ tráng kiện.

            “Lối sống mới của chúng tôi được coi như là ảo tưởng. Nhưng chẳng bao lâu sẽ thấy, người ta ngụ ý rằng thế hệ hiện nay luôn luôn phải bị hy sinh một cách không thương xót cho thế hệ sau được hạnh phúc.

            “Cuộc Cải Cách Ruộng Đất mới đây chỉ tạo ra nạn đói. Mọi người trong chúng tôi chẳng có gì bỏ bụng. Cái chủ nghĩa duy vật của CS đã thành con yêu tinh mút hết màu mỡ đất đai của chúng tôi. Thoạt tiên chủ nghĩa yêu nước của Việt Minh đạt được dường như có vẻ phù hợp với công lý đích thực. Nhưng rồi sau đó trở thành một thứ bố láo thực thụ. Khoa xã hội học mới đã dẫn tới sự tố giác lẫn nhau trong gia đình, tự phê tự kiểm và sự nghi kỵ. Dân làng chúng tôi đã bị hy sinh một cách tàn nhẫn cho ý tưởng lợi ích kinh tế. Chưa từng bao giờ có sự độc ác có hệ thống và tổ chức như vậy.

            “Tất cả chúng tôi cùng có một ý nghĩ – bỏ trốn – thế là chuẩn bị mấy tuần lễ. Ngày nào chúng tôi cũng giấu những nắm cơm nhỏ. Không nói cho ai biết về ý định trốn thoát. Làm gì cũng phải giấu giấu giếm giếm. Viên chủ tịch xã trước kia là người phe chúng tôi, nhưng nay ông ta là cán bộ Việt Minh, và đã trở nên độc ác vì niềm tin mới của ông ta. Ở đâu ông ta cũng có chân tay nằm sẵn, tại khu chợ, tại mỗi căn lều.

            “Chúng tôi làm kế hoạch, nhưng không dám họp nhau. Theo luật lệ mới, không được hội họp trên 4 người. Chúng tôi chuyền khẩu cho nhau khi cúi lưng trên đồng ruộng, hay khi dân chài chúng tôi đổ cá lên bờ, hay khi đám phụ nữ đi chợ.

            “Cuối cùng các kế hoạch và lời cầu nguyện đạt đến đỉnh cao. Đêm đó đã đến. Trời không trăng, tối như mực. Biển lặng. Từ 11 giờ đêm đến 1 giờ sáng, chúng tôi chuồn lén xuống thuyền từng người một, hay từng 2 người. Trong khi đó thì một anh chàng tên là Mai Văn Thinh, la hét và hát cao giọng làm náo động ở cuối làng. Sự ồn ào kéo chú ý của cảnh sát và cán bộ và binh lính VC. Họ kéo nhau đến xem chuyện gì xảy ra. Trong khi đó thì chúng tôi tiếp tục lên thuyền.

            “Những chiếc thuyền này được đóng để chỉ chở được 25 người thôi. Đêm ấy mỗi chiếc chở gần 100. Lẳng lặng như đêm khuya thinh lặng, chúng tôi nhẹ nhàng chèo thuyền ra khơi của biển Đông.

            “Vâng, chúng tôi đã thành công trong việc rời làng. Nhưng chúng tôi không hoàn toàn vui, vì cứ mải nghĩ đến anh chàng Mai. Chẳng bao lâu bọn họ sẽ biết anh ta đóng vai trò gì trong cuộc vượt thoát của chúng tôi. Lúc ấy số phận anh ta sẽ ra sao?

            “Cha mẹ Mai đều bị giết trong chiến tranh, rồi năm 1953, người em độc nhất của anh ta tên Châm đã bị thiêu sống, vì là thủ lãnh phong trào thanh niên Công Giáo. Chiều ngày 16-1-1953 Châm bị trói vào một gốc cây, bị đánh dã man bằng gậy tre già. Rồi cái thân sũng máu của anh bị tưới xăng, châm lửa đốt cháy cho đến chết.

            “Vừa dùng chèo, vừa dùng buồm, chúng tôi ra khơi thật nhanh hết sức mình có thể được, nóng lòng vượt hết 3 dặm giới hạn để vào hải phận quốc tế, là an toàn. Khoảng hửng sáng thì chúng tôi không còn thấy bờ nữa, và cảm thấy đã tương đối an toàn. Nghĩa là chúng tôi đã thoát được một mối nguy. Bây giờ phải chiến đấu với biển cả, một mối nguy khác.

            “Chúng tôi muốn đi về hướng Bắc. Nhưng không có địa bàn, và cũng chẳng có bao nhiêu kiến thức về hải hành. Tuy nhiên chúng tôi cố để mặt trời ở bên phải và hướng về Hải Phòng. Chúng tôi được biết tại đây người Pháp và người Mỹ sẽ sẵn sàng vớt chúng tôi. Rồi họ sẽ đưa chúng tôi vào Sài Gòn.

            “Chuyến đi của chúng tôi dài 5 ngày 5 đêm. Chúng tôi không có lửa vì củi trên thuyền quá ướt. Chúng tôi ăn cơm đẫm nước. Trà thì pha nước mặn và càng làm cho chúng tôi bệnh hơn. Chúng tôi có quá ít nước uống, đúng ra là chẳng có nước. Mỗi đợt sóng lớn lại làm sàn thuyền ngập tràn nước biển. Thật là cực khổ. Sáng sớm hôm nay chúng tôi tới được chốn lạ lùng này, và đoán mình đã vào được vịnh Hạ Long. Khi thấy chiếc thủy phi cơ của các ông, thì chúng tôi hoàn toàn chắc chắn. Và bây giờ chúng tôi đã được tự do…”

            Mấy người thủ lãnh dân làng kể chuyện này một cách bình tĩnh, nhẹ nhàng. Vừa sợ hãi vừa thán phục, chúng tôi chăm chú nghe câu chuyện về sự dũng cảm và niềm hy vọng cao cả của họ.

            Rồi bỗng tiếng hát vang từ bên ngoài sân tầu vọng vào. Chúng tôi bước ra để nghe những lời thánh ca diu dàng của đám đông tỵ nạn. Chúng tôi nghe tiếng được tiếng mất. Mấy thủ lãnh ngân nga theo bài hát rồi dịch ra tiếng Pháp cho chúng tôi.

            Dân làng đang hát lời cảm tạ Thượng Đế đã cứu giúp họ trong cơn nguy nan trong cuộc đời của họ:

            “Chúa ôi, chúng con kính yêu vẻ đẹp huy hoàng của nhà Chúa, và nơi mà sự vinh quang Chúa hằng ngự trị. Xin cho chúng con được sống những ngày bình an với Chúa.”

Ngày Lễ Các Thánh dài nhất của Phát Diệm (chương XII)

            Ủy hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến (CIC) do Hiệp Định Genève thành lập thường có nhiều toán quan sát đặt tại Sài Gòn, Hà Nội, Vientiane (thủ đô Ai Lao) và Phnom-Penh (thủ đô Cam Bốt) và một số thành phố lớn ở Đông Dương. Ngoài ra còn có nhiều toán lưu động đi đến những nơi có khiếu nại tranh chấp về việc thi hành hiệp định…

            Theo nguyên tắc, ai cũng có quyền tìm gặp thành viên của Ủy Hội bất cứ lúc nào. Vậy ai có khiếu nại gì chống một bên trong hai bên, đều có thể trình bày trước mặt đại diện của UH (Ủy Hội Quốc Tế, CIC). Nhưng UH đã không giúp được gì mấy trong vấn đề quyền di cư của người tỵ nạn.

            Thực ra UH cũng muốn giúp và ngay cả VM cũng không muốn bị UH báo cáo là vi phạm hiệp định.

            Nhưng UH chỉ có thể tìm ra sự việc và báo cáo. Họ không có quyền lực gì để bắt buộc VM phải cho người tỵ nạn ra đi.

            Nếu UH đến thăm một làng nào đó, họ có thể đặt một cái bàn hội nghị tại một công viên (hay đình làng) chẳng hạn và cho loan báo là ai muốn nói gì với UH thì cứ đến. Nhưng ngay ở bên ngoài công viên đó, VM có thể đặt những chướng ngại cấm người làng lai vãng công viên. Họ viện cớ bảo vệ an ninh cho các đại diện của UH. Vì vậy các đại diện của UH chỉ có thể nhận được khiếu nại và tin tức khác từ một số rất ít người trong một vùng đất rất nhỏ.

            Và những ai dám khiếu nại luôn luôn sợ bị trả thù và thường bị trả thù thật. Đại diện UH có thể đặt một chiếc xe lớn bên cạnh bàn hội nghị, và sau khi nghe lời khiếu nại sẽ bỏ phiếu cho phép người dân ra đi và thông báo cho xã trưởng VM. Nhưng như vậy không đủ. Phải làm sao người ra đi leo được lên xe và được chở đi khỏi làng thì mới thành công. Nhưng UH không có phương tiện chuyên chở hữu hiệu đó.

            Trong nội bộ UH, còn có những vấn đề thường gặp phải mỗi khi một cơ quan hỗn hợp nào có thành phần CS trong đó. Đại diện Ba Lan (CS) xem ra cương quyết gây trở ngại. Và chính tôi nhiều lần đã chứng kiến những hành động cản trở của họ.

            Tôi đưa một người tỵ nạn đến UH. Người này đã bị VM đánh đập tàn tệ. Có một cuộc họp của hội đồng đại diện UH. Người tỵ nạn kể chuyện mình bị đánh. Sau nhiều giờ tranh luận, người này bị trả về trại. Xem ra lúc nào đại diện Ba Lan cũng đòi phải đưa bằng chứng là điều đã rõ không thể nào làm được. Vết thương là bằng chứng có bị đánh. Nhưng làm sao chứng minh được những vết thương đó là do VM gây nên?

            (…)

            Nhiều người trong số dân tỵ nạn cho tôi biết là có hàng ngàn người ở Phát Diệm và xung quanh đó muốn trốn vào Nam, mà không đi được. Chúng tôi bàn với Cauvin rồi chọn mấy người khỏe mạnh nhất và can đảm nhất, cả đàn ông lẫn đàn bà, gây cảm tình, tạo lòng tin rồi cho họ biết kế hoạch của chúng tôi và phần vụ của mỗi người trong đó. Họ rời Hải Phòng quay trở lại bên kia bức màn tre.

            Những người đó loan tin rỉ tai cho người trong vùng biết rằng nếu họ muốn đi Nam thì hãy tập trung tại nhà thờ Phát Diệm vào dịp Lễ Các Thánh đầu tháng 11. “Ở đó sẽ có đại diện của UH đến gặp các bạn và nghe các bạn trình bày và sẽ cho các bạn đi tìm tự do.

            Lúc ấy VM chưa đóng cửa nhà thờ Phát Diệm. Giáo dân có quyền công khai tới đó dự Lễ Các Thánh là lễ buộc theo Giáo Luật. Và họ tới rất đông, đứng chật nhà thờ và ra cả ngoài sân. Cùng lúc đó tại Hải Phòng và nhiều nơi khác có một chiến dịch rộng rãi nhằm thuyết phục UH quốc tế nên tới Phát Diệm để điều tra về những khiếu nại là có sự cấm đoán di cư. Đô Đốc Querville (Pháp), Đại Tướng O’Daniel (Mỹ) ở Sài Gòn, Đô Đốc Sabin từ soái hạm ngoài khơi, Thị Trưởng Mai Văn Bột của Hải Phòng, và nhiều người khác đều gửi thư và điện tín đến trưởng toán lưu động đặc biệt của UH.

            Nhưng có cái gì đó không ổn. Tôi không rõ tại sao, họ chẳng bao giờ giải thích. Thành viên của toán lưu động đã không tới Phát Diệm ngày mồng một, ngày mồng hai, rồi ngày mồng ba cũng không.

            Tin bí mật chuyền cho dân trong nhà thờ cứ ở lại đó chờ đợi kiên nhẫn. Đô Đốc sẵn sàng để toán lưu động UH xử dụng máy bay của ông, mặc dù họ đã có hai máy bay trực thăng. Thêm nhiều thư tín thúc dục họ nên đi Phát Diệm. Nhưng họ vẫn trì hoãn.

            Tại Phát Diệm thì Việt Minh đâm nghi: Tại sao lễ các thánh một ngày lại kéo dài thành 3 ngày? Họ ra lệnh mọi người phải về nhà. Nhưng dân không về. VM đặt lính gác xung quanh sân nhà thờ, cấm chỉ không ai được bán hay cho thực phẩm cho những người ở bên trong. “Hãy để chúng cứ đọc kinh, nhưng không cho ăn, hay uống”. Đó là lệnh.

            Để đói là vũ khí chiến tranh đã có từ thời đoàn lê-dương Carthage, và chắc hẳn từ xa xăm trước nữa. Nó đã được VM đem dùng một cách tàn nhẫn vào năm 1954.

            Tuy nhiên dân vẫn không về. Chỉ có mấy người yếu quá về. Tất cả những người khác vẫn kiên nhẫn chờ phái đoàn của UH, vì họ tin những lời đã nói cho họ biết như thế. Sự chạy đua kiên nhẫn không bền. Nhiều người yếu chịu đựng đã mang nhiều thứ bệnh khác nhau. Nhưng dầu sao lòng tin của họ vào giấc mơ Tự Do cũng mạnh đủ để cho họ lương thực (thiêng liêng) mà họ cần trong thời gian căng thẳng này.

            Những ngày cứ kéo dài ra. Bốn thành năm, năm thành sáu, rồi thành bảy. Trẻ con đói la khóc. Vì mẹ chúng đã cạn sữa. Vì không có vệ sinh, nên nhiều người sinh bệnh. Nhưng họ vẫn chờ đợi và cầu nguyện.

            Cuối cùng, vào khoảng ngày 10 tháng 11 những đại diện của UH đã tới Phát Diệm. Thành viên trong đoàn về sau nói với tôi rằng họ không chịu nổi mùi hôi thối đến phải nôn mửa, khi họ hãy còn cách xa khu nhà thờ cả trăm mét. Những thành viên người Canada nói ngay cả những người Ba Lan trong đoàn cũng ngạc nhiên về sự dơ dáy bẩn thỉu mà dân tỵ nạn phải chịu đựng.

            Nhân viên UH đã lập tức ra lệnh cho dân được ăn uống và đi lại tự do trong khuôn viên nhà thờ. Họ mạnh mẽ phản đối nhà cầm quyền Việt Minh, và ra tuyên bố ở Hà Nội chống chính phủ Hồ Chí Minh đã áp bức dân Phát Diệm.

            Để xoa dịu dư luận thế giới, Việt Minh đã ra lệnh cho các giới chức địa phương phải cho phép dân ra đi. Nhưng ngay trong lệnh này cũng có cái bẫy của nó.

            VM lập những văn phòng có khả năng giải quyết mỗi ngày 100 người. Một văn phòng cấp thông hành, nhưng chỉ sau khi đương đơn trình đủ giấy tờ cần thiết. Một văn phòng khác bán vé để được lên xe buýt của VM cung cấp, để nói là sẽ chở tới Hải Phòng. Giá một vé xe buýt là 8000 đồng Hồ Chí Minh, tương đương với 9 Đô-la Mỹ. Đối với gia đình dân quê 6 người thì đây là một món tiền quá lớn.

            Nhưng để trả lời những câu hỏi từ khắp nơi trên thế giới về cuộc di tản này, VM trả lời: “Vâng, chúng tôi cung cấp văn phòng, thông hành, và phương tiện di chuyển cho những người – bị lầm, chúng tôi tin chắc thế– mà quyết định đi sang vùng khác…”

            Mãi tới ngày 15 tháng 11 toán đầu tiên mới bắt đầu rời Phát Diệm. Thay vì đưa họ đi trên đại lộ, chỉ vài giờ là tới nơi, VM đã chở họ đi theo một con đường vòng vo trắc trở. Một phần họ cho đi xe buýt. Rồi bị chặn lại, nói là xe hư cần phải sửa. Và như thế phải đợi vài ngày. Trong thời gian chờ đợi, VM không ngừng thuyết giảng về sự sai lầm đòi di cư và về sự tàn ác của người Pháp và người Mỹ ở Hải Phòng và Sài Gòn.

            Sau đó dân di cư được chuyển sang những chiếc thuyền, bè lênh đênh trên sông Hồng. Lại thêm chờ đợi, xách nhiễu, và thất vọng. Đến được Hà Nội, sẽ có xe lửa chở họ đến Hải Phòng. Từ đó xe của Pháp sẽ chở họ đi những cây số còn lại để tới trại của chúng tôi.

            Hàng ngàn người đã kiên nhẫn trải qua hết khó khăn này, trở ngại kia để tới được một địa điểm xa bên kia bức màn tre. Nhưng đến được đó thì ôi thôi, giấy thông hành của họ đã hết hạn. Thế là lại phải trở về nguyên quán, và làm lại mọi thủ tục rắc rối, nếu còn đủ sức.

            Những người tỵ nạn may mắn hơn thì gặp được hải quân Pháp vớt đưa lên tầu của họ. Những chiếc tầu này đã chờ đợi họ ở ven ranh giới bức màn tre, nơi có cái tên là Cac Cuu (?) Tại đây tầu Pháp chặn tất cả thuyển bè của VM, và trước mặt đại diện của UH trên tầu, họ yêu cầu VM phải trao người tỵ nạn để chở đi Hải Phòng.

            Bất chấp mọi phiền nhiễu và trắc trở, cực nhọc, bất chấp cả những bài thuyết giảng liên tu bất tận đến điên người, bất chấp những phương tiện chuyên chở thiếu thốn, và bất chấp cả sự tàn nhẫn dã man của VM muốn kìm chân họ, những đoàn người di cư vẫn không nản. Chỉ tại Phát Diệm không thôi, đã có 5000, trong số 35,000 người ban đầu muốn đi, đến được bến bờ tự do (nghĩa là chỉ có một phần bảy, còn 6 phần 7, tức 30,000 người đã bị VM cản trở không thể vượt qua). Đó là theo con số chính thức của ủy hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến.

Bùi Chu đồng nghĩa với lòng dũng cảm
(chương XIII)

            Chiến tranh tạo nên những anh hùng, và anh hùng ca. Nhưng hòa bình ở miền Bắc Việt Nam, lạ lùng thay lại cũng tạo nên vô số hành động anh dũng chẳng khác gì trong chiến tranh.

            Tôi biết nhiều chuyện như thế. Chính tôi chứng kiến hàng chục, và nghe kể hàng trăm chuyện như vậy.

            Tôi nhớ những người dân tỵ nạn từ tỉnh Bùi Chu đến trại chúng tôi vào tháng 11. Ở Bùi Chu cũng như ở những nơi khác, dưới “ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lê” chỉ có bóng tối, và sự đầm ấm của gia đình đã chết trong những căn nhà tranh của người dân. Nhưng tinh thần của người dân đã không chết. Niềm hy vọng của họ vẫn tồn tại.

            Nông dân Bùi Chu tương đối giầu. Nhưng rồi chiến tranh đã làm họ mất cả. Họ chỉ còn Thượng Đế.

            Ngày nay chính quyền mới áp đặt luật lệ mới. Nông dân phải nghe thuyết trình mỗi ngày về sự độc ác và những sai trái của tư bản… Cả tỉnh trở thành như một nhà tù mênh mông. Sách giáo lý bị đốt, tôn giáo bị chế diễu là thuốc phiện. Cải Cách Ruộng Đất đôi khi đem lại cho người vô sản có đất, nhưng không phải cứ có nhiều đất hơn thì có thực phẩm hơn.

            Nhiều người dân Bùi Chu đã bị xử tử. Con cháu họ đã kể lại cho tôi nghe. Tôi nghĩ họ không nói dối. Đối với dân Bùi Chu chỉ có một lối thoát là trốn đi. Hy vọng và mơ ước chuyện đó thì dễ, nhưng không dễ để thực hiện. Bùi chu có khoảng 30,000 dân. Đã có kế hoạch cho họ trốn. Từ phía những tổ chức bí mật của người Việt, cũng như từ phía hải quân Pháp và hải quân Mỹ. Ngày giờ, địa điểm được ấn định như sau: Ngày 30 tháng 11, tại một bãi biển gần làng Văn Lý.

            Một chiếc tầu sửa chữa lớn của Pháp, chiếc Jules Verne, đã đậu sẵn ngoài khơi, ngay bên ngoài giới hạn 3 dặm. Rồi 4 chiếc LSM được kéo tới sát bên tầu Jules Verne, làm ra bộ như để được sửa chữa. Và cũng làm ra như tình cờ có chiếc vận tải hạm to lớn của Hải quân Hoa Kỳ vắng khách đi qua từ Sài Gòn trở về Hải Phòng. Tầu này cũng dừng lại ở đó trong chốc lát.

            Bộ phận bí mật của người Việt đã loan truyền tin tức cho dân. Tới giờ trốn kém 10, biển động. Trên giải 3 dặm nước dậy sóng lớn từ tầu tới bãi, không thấy có gì, chỉ có ánh trăng, nhưng trăng sáng quá… quá nguy hiểm. Rồi giờ trốn đã tới, đúng 8 giờ. Trong vài phút mặt biển đầy những thuyền, bè, mảng, sà lan.

            Hàng ngàn dân trên bờ đang kéo thuyền bè của họ qua bãi cát tới chân nước. Họ nhắm tiến tới chiếc tầu của Pháp cũng chạy nhanh về phía họ.

            Hai bên gặp nhau. Tầu Pháp há mồm ra lặng lẽ đón dân tỵ nạn vào hết lớp này đến lớp khác. Rồi nó quay đầu trở ra tầu lớn, 2 chiếc Jules Verne và Brewster. Trên một chiếc bè nhỏ bằng những cây luồng (một thứ tre lớn) cột lại với nhau, có lẽ chỉ vài mét vuông có thể có cả một gia đình đông tới 10 người mặc quần áo nâu, lặng lẽ, sợ sệt. Nếu vì chở nặng quá, mà chiếc bè chìm, đôi khi đến đầu gối, thì họ sẽ giơ những đứa trẻ lên cao.

            Trăng sáng có để họ đi thoát không? Biển động liệu có khỏi đánh đắm tầu họ không? Tầu lớn chỉ có hai chiếc, liệu có đủ chỗ không? Liệu kẻ thù đã nghi chưa? Liệu những súng máy có nhả đạn làm kinh hoàng, hoảng loạn trong đêm không?

            Những cái sợ đó dày vò họ trong khi tiến ra biển khơi. Nhưng họ là những kẻ dũng cảm dám liều với hiểm nguy, kể cả cái chết. Đến hửng sáng đã có 6000 người lên được 2 chiếc tầu Mỹ và Pháp và được chở đi Hải Phòng. Dẫn mọi người vào trại Chùa xong, 2 tầu trở lại Bùi Chu để đón thêm nữa.

            Công việc kéo dài trong 2 ngày hai đêm cho đến khi số người tỵ nạn lên đến 18,000. Ngày thứ 3 không còn thấy dân tỵ nạn nữa, chỉ trừ một nhóm nhỏ bị bỏ rơi trên một mỏm cát. Lính Việt Minh xuất hiện và cuộc vượt thoát phải ngưng.

            Nhưng những người còn bị giam lại không ngừng ước mơ. Mong có một cơ hội khác. Họ sẽ lại thử thời vận.

            Khi có đoàn người mới tới, những người đã tới mấy hôm trước, cầm đèn, nến đứng hai bên dọc đường dẫn vào trại, còn những người mới tới đi thành hàng dài ở giữa hai hàng đèn, nến chập chờn như một cuộc diễn hành thật cảm động. Người ta hỏi nhau để biết tin tức về thân nhân. Có những câu hỏi lo lắng, thường thường vô vọng như:

            – Ông (bà) có thấy ai thuộc gia đình Đức Lý không?

            – Chị (anh) có nhìn thấy ai bơi ra khỏi chiếc thuyền bị đắm không?

            – Các bạn có nghe tin tức gì về dân làng Thanh Hòa không?

            – Cháu có gặp con bác không? nó bảy tuổi ấy mà..

            Cũng có người tìm lại được thân nhân. Nhưng hầu hết thì không.

            Những ngày và tuần lễ sau đó, dân di cư từ Bùi Chu cần được săn sóc liên tục về y tế. Nhiều trẻ em bị đậu mùa. Nhiều em khác bị dịch lở, chốc. Có lẽ đã đến giai đoạn hai. Sốt dữ dội. Mất nước nhiều quá. Và tôi đã phải mất 4 ngày cho chỉ một chứng dịch lở này.

            Rất nhiều người bị phù thủng, vì thiếu sinh tố do thiếu ăn kể từ ngày có Cải Cách Ruộng Đất. Nhiều người đói lả, không đến nỗi chết, nhưng tàn tạ, với đủ thứ thương tật.

            … Mỗi ngày chúng tôi phải chữa trị trên 200 trường hợp, 200 thân thể dị dạng đầy những vết thương hôi hám thối tha, trên bàn tay, bàn chân và cả ở mặt.

            Chứng say sóng càng làm cho những bệnh nhân trở nên suy kiệt. Tất cả những con người khốn khổ trốn chạy Việt Minh vào ở trong trại Chùa nay trở thành bệnh nhân mà tôi phải cứu chữa.

            Người dân Bùi Chu, tôi đã thấy, họ không khác gì người Mỹ. Người Mỹ không thể nào không thích họ, khi đã biết họ. Không thể nào không kính trọng lòng khao khát tự do của họ. Không thể nào không cảm phục khen ngợi những con người dũng cảm của Bùi Chu. Sự khác biệt chính giữa người Mỹ và người Việt là: Người Mỹ chúng tôi có tự do và trái tim chúng tôi khiến chúng tôi cố duy trì tự do mà chúng tôi có. Còn người Việt thì không có tự do và trái tim của họ thúc đẩy họ phải đấu tranh bằng mọi cách để đạt được tư do.

            Và cứ thế người chạy trốn CS tiếp tục tuốn đến trại chúng tôi, như mưa không ngớt giữa mùa mưa, rơi rớt ra cả bên ngoài, tràn lan tới những con đường và cánh đồng xung quanh. Chúng tôi lo cho họ lên tầu để vào Sài Gòn sớm chừng nào hay chừng ấy. Mỗi ngày chúng tôi đưa lên tầu từ 4 đến 5 ngàn người. Nhưng số người vào trại mỗi ngày thường đông hơn thế.

            Đây là cư dân của trại của tôi. Thành phố của tôi gồm những lều vải nằm ngổn ngang cắm trên những vũng bùn lầy sâu đến đầu gối. Chúng tôi tăng trưởng với sâu bọ, rác rưởi, bệnh tật và chết chóc. Nhưng trại của chúng tôi cũng là trại của hy vọng, tự hào và đầy dẫy những chuyện anh hùng.

Trại cô nhi của bà Ngải (chương XIV)

            Chương này dài gần hai chục trang, được trung úy Dooley thuật lại một cách cảm động, khiến người đọc chẳng những cảm phục bà Ngải mà nhất là mến thương những đứa trẻ mồ côi ngoan ngoãn, trong đó phải kể đến bé Lia mới 7 tuổi đầu, lại bị mìn chặt cụt một chân mà vẫn cố sức làm việc, giúp cả việc bệnh xá của tác giả.

            Dưới đây chúng tôi chỉ tóm tắt lại trong vài hàng.

            Gần trại Chùa có một trại mồ côi của bà Ngải, nuôi dạy gần một ngàn trẻ mồ côi. Dooley chăm lo sức khỏe cho đám này thêm vào công tác y tế thường xuyên của trại Chùa. Bà Ngải là người duyên dáng mà có lòng thương trẻ, dành cả cuộc đời cho trẻ. Bà đã gần 60, nhưng còn nhanh nhẹn, duyên dáng như mới 30. Trước kia bà cũng thuộc loại giầu có nhất trong một tổng thuộc tỉnh Thanh Hóa. Chiến tranh, ngay từ những ngày đầu đã giết chồng bà. Hai con bà hiện ở Pháp. Bà nói tiếng Pháp như đầm. Chiến tranh giết không biết bao gia đình. Trẻ mồ côi đầy đường không ai trông coi. Bà Ngải đi lượm lặt về nuôi… Cứ thế từ vài đứa lên đến vài chục, vài trăm và sau cùng gần một ngàn. Bà đưa vào Nam được hơn 800 đứa, hầu hết là thuộc các gia đình Phật Giáo. Dooley gọi chúng là những Phật tử mồ côi rất ngoan.

            Vào được Sài Gòn rồi, các trẻ của bà Ngải được hội các bà vợ Mỹ cung cấp nhà và phương tiện để sinh sống và học tập. Phải bỏ quê hương đi bà rất buồn nhưng bà tin tưởng rằng Bắc Việt sẽ được giải phóng trong tương lai. Bà cứ nấn nã mãi không chịu xuống tầu di cư. Nhưng đến giữa tháng tư VM bắt đầu cho quấy phá Hải Phòng. Tình hình bất ổn. Lúc ấy bà mới vội vàng cho 800 trẻ của bà xuống tầu, đem theo đủ thứ của trại, nhờ sự giúp đỡ tận tình của các cơ quan Hải quân Mỹ và Pháp. (Người Pháp và người Mỹ cũng như dân chúng Hải Phòng rất sợ là Việt Minh có thể “giải phóng” Hải Phòng trước kỳ hạn chót được ấn định vào tháng 5 năm 1955).

Chính sách “cải tạo tư tưởng” của Cộng Sản (chương XV)

            Trẻ con Việt Nam già rất sớm khi còn nhỏ. Chúng có vẻ chững chạc và nghiêm nghị khi hãy còn là thiếu niên, và đặc biệt là thường rất dũng cảm.

            Có một số trẻ làm việc cho chúng tôi trong trại, ở lại đó nhiều tháng. Chúng làm những việc của người lớn, đảm đương những trách nhiệm của người lớn; khi được hút thuốc lá, chúng cũng hút như người lớn. Mà chúng chỉ mới 10, 12 tuổi hay 8 tuổi. Mỗi y tá của tôi được tôi cung cấp cho 6 hay 7 đứa trẻ như vậy giúp việc. Chúng hân hạnh được đội mũ hải quân. Một số còn lại bám sát theo tôi cả ngày lẫn đêm, lắm lúc cũng thấy phiền. Chúng có thể đến gọi tôi đến cứu một bà già quá yếu không đủ sức rời lều, hay lôi tôi tới một người đàn ông tàn tật. Chúng có thể chạy những việc vặt, tìm đồ vật tôi cần, nấu nước sôi cho lều bệnh xá. Đôi khi chúng giặt quần áo giúp tôi. Nhưng trong trường hợp như thế chúng thường thích giặt trong nước ruộng lúa, dĩ nhiên tôi không để chúng giặt như vậy. Thỉnh thoảng chúng còn dám lái xe truck của chúng tôi để làm trò vui chơi. Trẻ con thường thích thứ trò chơi đó.

            Có thời gian tôi ở khách sạn thì chúng ngủ bên ngoài cửa. Thường chúng đóng vai liên lạc khi có toán người vừa trốn thoát được tới nơi và cần giúp đỡ ngay.

            Bất cứ lúc nào ông Hàm (Mai Văn Hàm) hay một viên chức Việt nào khác muốn gặp tôi, họ chỉ cần để ý thấy đứa trẻ nào đội mũ hải quân, hay một đứa bé đánh giầy, bảo nó đi tìm “bác sĩ Mỹ”.

            Khi có một đứa trong số những “phụ tá” đó lên đường vào Nam, chúng tôi thường có một chút nghi lễ tiễn đưa nó. Nhiều sĩ quan trên tầu đã từng tặng tôi những huy hiệu cấp bậc thiếu úy. Vậy là trong ngày có nghi lễ, ông “quan hai” sẽ gắn lon cho vị phụ tá của mình lon “quan một” hải quân. Lon đó được gắn trên vai đứa trẻ phụ tá làm thêm vẻ quan trọng trước sự chú ý của mọi người. Tôi hy vọng phòng Nhân Viên của Hải Quân sẽ hiểu và thông cảm khi nghe biết về dịch vụ tuyển thủy binh bất thường của tôi. (…)

 

            Việt Minh tổ chức tuyên truyền sâu rộng trong đám trẻ con và thiếu niên trong nước… Lần đầu tiên tôi được biết về việc này là vào tháng 12 (năm 1954).

            Sau khi đã tiếp thu quyền kiểm soát một làng ở tỉnh Hải Dương, Việt Minh CS đến thăm trường làng và đưa 7 em bé ra khỏi lớp, bắt ngồi xuống sân trường. Bàn tay và cánh tay các em bị trói giặt cánh khỉ ra sau lưng. Rồi chúng lôi một giáo viên trẻ ra, tay cũng bị trói như vậy. Rồi lớp học bắt đầu.

            Với giọng nói lớn đủ để những học sinh còn ngồi trong lớp nghe được, cán bộ VM tố cáo những học sinh này về tội phản quốc: “Một “người yêu nước” đã báo cho công an biết giáo viên này đã mở những lớp học bí mật, vào ban đêm, để dạy tôn giáo. Chúng học cả kinh bổn.”

            VM tố cáo 7 đứa trẻ về tội “mưu phản” vì đã nghe lời dạy của giáo viên này. Để trừng phạt tội đó, những đứa trẻ sẽ bị hủy thính giác. “Chúng sẽ không bao giờ còn có thể nghe được những lời nói bậy của kẻ ác.”

            Sau đó hai cán bộ VM đến bên mỗi đứa trẻ, một tên nắm chặt đầu em bé bằng hai bàn tay rắn chắc. Tên kia lấy chiếc đũa bằng gỗ vót nhọn đóng vào mỗi lỗ tai. Nó đóng hết sức mạnh. Chiếc đũa xé toạc lỗ tai ra và làm thủng màng nhĩ. Tiếng la hét của đứa trẻ cả làng đều nghe. Cả hai lỗ tai đều bị chọc thủng bằng cách đó.

            Bảy đứa trẻ la hét thất thanh, vùng vẫy, giẫy giụa, đau đớn kinh khủng. Vì cả hai tay đã bị trói đàng sau lưng, nên chúng chẳng có cách gì rút những chiếc đũa ra. Chúng lắc lư cái đầu, quằn quại trên đất cố làm cho những chiếc đũa rớt ra…

            Về phần giáo viên, VM phải ngăn chặn không cho anh ta còn khả năng dạy dỗ nữa. Sau khi bị cho chứng kiến nỗi đau đớn cực hình của những học sinh yêu quý của mình, đến lượt người thầy giáo trẻ cũng bị cực hình như sau: Một tên lính VM giữ chắc đầu giáo viên trong khi tên kia lấy kìm kẹp đầu lưỡi lè ra khỏi miệng để tên thứ 3 dùng lưỡi lê xẻo đứt luôn. Máu chảy xối xả vào miệng, phun ra đàng mũi và văng vãi xuống đất. Nạn nhân đã không có thể kêu la một tiếng. Máu chảy cả vào cuống họng. Khi mấy tên lính VM bỏ anh ta ra, anh ta liền té xuống đất và thổ ra máu. Mùi máu tanh tưởi bốc lên từ khắp mặt sân trường.

            Nhưng, người giáo viên cũng như 7 học sinh vẫn không chết. Khi tin dữ này xuyên qua bức màn tre, thì người ta tìm cách cho những nạn nhân trốn thoát. Và chẳng bao lâu 8 nạn nhân nói trên đã có mặt trong căn lều số 130, trại Chùa. (Trại tỵ nạn tạm thời ở Hải Phòng là nơi tác giả làm việc có tên là “Camp de la Pagode”)

            Chúng tôi hết sức mình cố chữa trị nạn nhân, tuy nhiên cũng không hoàn toàn như ý…

            Giáo viên đó không ăn được, chỉ uống đồ ăn lỏng. Các học sinh đó không bao giờ nghe lại được nữa!

            Tôi viết những điều này ra không phải để làm buồn nôn và buồn lòng bất cứ ai, hay có ý nhấn mạnh sự tra tấn tàn ác, dã man của ngưới Á Đông, là điều đã từng xảy ra trong thế chiến II và tại Hàn Quốc. Nhưng tôi thực sự muốn cho mọi người thấy những cực hình mà người dân ở châu thổ sông Hồng Hà phải chịu. Và công lý đòi hỏi phải ghi vào lịch sử một số điều cực ác mà chúng tôi được biết ở Hải Phòng.

            (…)

            Một đêm khuya, sắp đến giờ lễ Giáng Sinh, tôi bị đánh thức bởi những tiếng gõ cửa phòng ngủ. Có hai em nhỏ nói vọng vào xem “bác sĩ Mỹ” có sẵn sàng theo chúng đi ngay không? Tôi nghĩ chúng là những “phụ tá” tí hon của chúng tôi ở trong trại, và chắc đã xảy ra chuyện gì trong đó mà tôi cần phải chú ý. Vì thế tôi mặc quần áo thật nhanh và leo lên xe truck. Nhưng khi tôi lái thẳng trên xa lộ, thì hai đứa trẻ ra hiệu cho tôi quẹo vào một đường nhỏ ở giữa hai thửa ruộng. Tôi chẳng hiểu gì, nhưng vì chúng có vẻ tha thiết, khẩn khoản quá nên tôi lái theo hướng chúng chỉ. Chúng tôi quẹo và đi vài trăm mét nữa thì tới một túp lều tranh, hay đúng ra là một ngôi nhà tròn giống như túp lều. Tôi cúi người bước vào trong. Tôi thấy sao tối quá, và rộng không thể ngờ. Có một ngọn đèn dầu thắp sáng ở một phần nhà và gần đó có mấy người đang quì gối. Một người đàn ông, một người đàn bà và vài đứa trẻ. Họ đang hát thánh ca để cầu nguyện một cách đồng điệu, buồn rầu. Họ chào tôi bằng câu: “Chào ông bác sĩ Mỹ”, vừa nói vừa chắp tay vái chào theo lễ phép phương Đông. Rồi tôi nhìn thấy một người đàn ông nằm trên một chiếc nệm rơm được đặt trên 8 hay 9 thanh tre, tạo thành một chiếc cáng. Khuôn mặt ông ta méo xẹo quằn quẹo trong cơn hấp hối. Cặp môi mấp máy yên lặng như đang cầu nguyện. Mà thực sự ông ấy đang cố đọc kinh thầm.

            Khi tôi kéo tấm chăn phủ trên người ông ta ra, thì thấy một tảng thịt bầy nhầy đen xám từ vai xuống gối. Bụng rắn và sưng phồng. Bừu dái sưng to như quả bóng đá. Hai đùi biến dạng trông quái gở. Đây là một trong những cảnh tượng rùng rợn nhất mà tôi đã từng thấy. Ý nghĩ chỉ đụng vào người này cũng đủ làm tôi kinh tởm.

            Tôi buồn nôn, và cảm thấy mình sắp nôn mửa ra, nên vội chạy ra ngoài: Trong căn lều, tôi đã vừa thấy rõ một kiệt tác về sự tra tấn có hệ thống. Dưới trời đêm tôi đã mửa ra tất cả những gì tôi có trong bụng. Tôi cám ơn những người trong lều vì đã không theo tôi ra ngoài. Họ hiểu, và kiên nhẫn.

            Tôi không nhớ rõ phải mất bao lâu tôi mới tự chủ được. Nhưng cuối cùng tôi đã có thể bình tĩnh lại và trở vào để săn sóc nạn nhân, được coi như một cơn ác mộng của con người. Nhưng tôi có thể làm gì? Tôi có thể chích Morphine để giảm đau. Về cái bụng tôi có thể làm được một chút. Vì da chỉ bị nứt ở 4, 5 chỗ. Chảy máu toàn là dưới da tại những chỗ bầm tím đang chuyển sang màu vàng-tía. Tôi châm một mũi kim to vào bừu dái để cố rút bớt nước ra. Sau này tôi cũng luồn vào trong bọng đái một ống plastic nhỏ để giúp nạn nhân đi tiểu. Tôi có thể làm gì hơn?

            Tôi hỏi người đàn bà chuyện quái quỷ gì đã xảy ra cho người này? Bà ta nói:

            Vùng này đã rơi vào tay Việt Minh chỉ mới 7 tháng nay. Vì thế họ chưa thay đổi được hoàn toàn lối sống cũ. Linh mục hãy còn được phép làm lễ, nhưng chỉ được làm giữa 6 giờ và 7 giờ sáng. Đó là thời gian hầu hết nông dân sẵn sàng khỉ sự công việc đồng áng. Theo luật lệ CS, đó cũng lại là giờ mà dân làng phải tập họp lại tại khu công viên của làng để nghe thuyết trình hàng ngày về vinh quang của đời sống mới.

            Như vậy có nghĩa là giáo dân không thể nào có thể đến nhà thờ dự lễ của linh mục, dù là ngày thường hay chủ nhật. Vì vậy vị linh mục 57 tuổi dũng cảm này đã chấp nhận mọi hiểm nguy để làm lễ vào buổi chiều, trái lệnh trên. Vì thế Việt Minh CS quyết định vị linh mục này phải được “cải tạo” hay giáo dục lại.

            Đêm hôm trước, lính CS tới nhà nguyện của linh mục, tố cáo ông đã hội họp bí mật và ra lệnh phải ngưng ngay. Nhưng linh mục thách thức, trả lời rằng không gì có thể bắt ông ngưng rao giảng lời Chúa. Và sau đây là những gì bọn họ đã làm: Ông bị treo 2 bàn chân lên trần nhà. Đầu gần chạm đất. Với những thanh tre rắn chắc chúng bắt đầu đánh ông để “đuổi tà ma” ra khỏi ông. Chúng đánh trong nhiều tiếng đồng hồ. Ông không biết nó kéo dài bao lâu. Chúng tập trung đánh vào những chỗ nhậy cảm nhất của thân thể.

            Chúng nó để ông bị treo như thế rồi bỏ đi. Sáng hôm sau, mấy trẻ giúp lễ của linh mục tìm thấy ông ở đó và cố hạ được ông xuống. Những em bé này chỉ có 9, 10 tuổi. Chúng chạy vội đến báo cho cha mẹ chúng, vừa nói vừa khóc nức nở. Cha mẹ chúng đang bị bắt dự lớp học tập cưỡng bách tại sân đình làng.

            Mấy đứa trẻ dùng dây chằng những thanh tre lại với nhau làm thành cái bè tí xíu có thể nổi trên mặt nước, vừa dùng làm cáng khiêng trên bờ cũng được. Chúng đặt vị linh mục trên đó rồi khiêng xuống phía sau làng. Chúng giấu ông ở gần bờ sông. Con sông này là biên giới của vùng tự do. Khi trời tối hẳn, chúng nhẹ nhàng hạ chiếc bè-cáng xuống nước. Rồi mỗi bên 3 đứa, chúng chèo ra giữa sông và được nước chảy cuốn đi. Nước lạnh có lẽ đã là liều thuốc tốt cho vị linh mục, còn hơn hầu hết mọi loại thuốc của chúng tôi. Những đứa trẻ đã xoay xở đế đưa được cái bè qua sông mà không bị ai thấy. Mãi khuya chúng mới đưa được ông đến được căn lều của chị ông. Rồi chúng chạy đi tìm tôi. Sau đó ngày nào tôi cũng đến thăm ông ấy và cho ông ấy thuộc trụ sinh và morphine. Thật là một phép lạ, vị linh mục thoát chết. Phần thì nhờ cơ thể khỏe mạnh, phần nhờ đức tin.

            Tôi không thể ngờ rằng chẳng bao lâu ông đã có thể thường xuyên làm lễ như một tuyên úy cho trại Chùa.

            Có lẽ đáng lý chúng tôi đã phải để ông đi, khi ông xin được trở lại làng cũ. Và có lẽ thế giới cần có những vị tử vì đạo, mặc dù Bắc Việt thì đã có quá nhiều rồi.

            Tôi biết thật là không công bình nếu xét đoán toàn bộ một chế độ dựa theo sự hành xử của một số ít. Tuy nhiên đối với tôi, cộng sản đúng nó là như vậy. Đó là một thứ ma cà rồng. Nó đã chiếm lãnh gần hết Đông phương. Và như thế là gần phần nửa nhân loại. Từ tháng 12 đến ngày cuối, mỗi tuần có hai hay ba trường hợp tàn bạo của CS như vậy xảy đến chỉ trong vùng của riêng tôi. Những chuyến ra đi vào đêm cứ dẫn tôi gặp hết kinh hãi này đến kinh hãi khác.

            Những ngày đầu của tôi ở Hải Phòng tôi lấy làm lạ lùng khó hiểu không phải vì số trường hợp càng ngày càng tăng mà vì tính chất của sự tàn bạo. Quá nhiều trường hợp mang ý nghĩa tôn giáo. Càng ngày tôi càng nhận thức được rằng những sự trừng phạt của CS có liên hệ đến đức tin của con người vào Thượng Đế.

            Cho đến bây giờ, những linh mục là đối tượng chính của khủng bố CS. Dường như những ông này không bao giờ chịu “học tập dân chủ” như CS mong muốn. Vì vậy CS cần phải cưỡng bách các ông ấy “học tập” một cách “nghiêm ngặt” (tàn nhẫn) hơn những kẻ khác. Thật khó có thể uốn nắn những người đã có lòng tin sắt đá vào Thượng Đế để làm cho họ bỏ niềm tin đó. Thực tế là những người đó không thể bị chinh phục.

            Người Công Giáo có những lời kinh rất đạo đức thành kính, như “Ôi Giêsu Maria Giuse”, “Lạy Chúa hãy thương xót chúng con”. CS ra lệnh cho linh mục phải thay những câu đó bằng những khẩu hiệu “Tăng gia sản xuất”, “Chiến tranh nhân dân”. Có lẽ hai tiếng “căm thù” là được nghe nói nhiều nhất trên vùng VM chiếm đóng. Chúng đã hoàn chỉnh phương pháp tra tấn, bằng cách lúc thì chúng làm cho thân xác đau đớn, rồi sau đó làm khổ tâm trí…

            Ngày chủ nhật đầu tháng 3, cha Lopez thuộc xứ đạo Phi Luật Tân xin tôi đến thăm một người ốm, một linh mục Việt Nam vừa thoát khỏi vùng VM.

            Chúng tôi đi qua một khu sân rộng, đến khu dân cư. Ở trong phòng sau có một người đàn ông nằm trong đống rơm trên sàn nhà. Đầu ông ta đầy những mủ. Có 8 chỗ bị sưng phồng với mủ xung quanh trán và thái dương. Trước khi hỏi vì đâu nên cớ sự, tôi đã biết câu trả lời. Vị linh mục đặc biệt này đã rao giảng sự phản động, phản bội. CS đã tuyên án ông bị đội mũ gai giống Chúa Giêsu mà ông rao giảng.

            Tám chiếc đinh đã được đóng vào đầu vị linh mục. Ba chiếc ở trán. Hai ở phía trên gáy. Và ba chiếc trên đỉnh đầu. Đinh khá dài đủ để có thể cắm tới xương sọ. Sau khi thực hiện hành động độc ác đó, chúng để vị linh mục ở đó một mình. Ông cố đi tới một túp lều gần đó. Gia đình trong lều cố rút mấy chiếc đinh ra. Rồi ông được đưa tới Hải Phòng để cấp cứu. Trước khi tới nơi, hai ngày sau đó, thì những vết thương đã nhiễm trùng sang giai đoạn hai.

            Tôi rửa da đầu. Gắp những thứ đóng cục trong các vết thương. Và nặn mủ ra. Tôi cho vị linh mục dùng thật nhiều penicilline, và thuốc chống phong đòn gánh. Và mỗi ngày tôi đều trở lại thăm. Ông ấy đã khá. Một hôm tôi đến để cho thuốc, thì thấy ông ấy đã biến mất. Cha Lopez bảo tôi ông ta đã trở lại thế giới thầm lặng bên kia bức màn tre. Như vậy là ông trở lại với những kẻ đã tra tấn ông. Giờ này đây (1956) tôi tự hỏi, chúng đã làm gì vị linh mục ấy?

            Không phải chỉ có linh mục này mới là nạn nhân của sự tàn ác. Một ngày kia có một phụ nữ đến trạm xá của trại xin chữa trị.. Bà ta quấn một miếng vải quanh hai vai theo hình số 8. Chúng tôi tháo vải ra thì thấy cả hai xương vai đều bị vỡ rồi. Bà ta nói bị VM chặn trên đường đi tìm đường di cư. Bọn gác đã đánh bà vì tội dám toan bỏ nước ra đi. Chúng lấy báng súng đập nát vai bà, bắt quay lại. Nhưng rồi, dù bị thương nặng bà ta cũng đã cố tìm cách trốn được. Vừa kịp thời để được chữa lành.

            Tôi luôn luôn có một ý nghĩ hết sức đau buồn: “Chúa ơi, để một người trốn thoát được đến đây, ắt phải có hàng trăm người đã không chạy thoát.”

            Một hôm có một người đàn ông đến bệnh xá với hai ngón tay cái biến màu rõ rệt. Từ đốt đầu đến đầu ngón, một màu đen. Đây là bệnh thối hoại loại khô, y học gọi là “mummification”. Không đau dữ lắm. Không chảy máu. Chỉ có sự hoại mô và đau buốt.

            Ông ta nói chúng nó đã cột thừng vào hai ngón tay cái ông, rồi treo lên để “cải tạo”. Đã một tuần qua rồi. Từ ngày đầu hai ngón tay cứ mỗi ngày lại đen thêm. Và hôm nay thì bắt đầu xông mùi hôi thối.

            Khi khám bệnh, trong khi tôi cầm lấy ngón trái, thì một miếng thịt mủn rơi ra. Không chảy máu, không đau. Chỉ có một mẩu thịt thối ở trong tay tôi. Miếng thịt thối khô này sẽ vụn ra ngay nếu bạn chỉ khẽ bóp nó.

            Một trong số những người lớn tuổi bảo tôi: “Xin anh bạn nhớ cho rằng những người này sẽ chẳng bỏ nhà ra đi, nếu CS không làm những điều ác độc này cho những người rao giảng hay giữ đạo Chúa.”

            Tôi nghĩ, chắc họ nói đúng. Trong số dân tỵ nạn có nhiều người theo đạo Phật. Nhưng khi nghĩ tới số người dự lễ mỗi ngày tôi chắc là người theo đạo Công Giáo phải từ 75 đến 80 phần trăm. Trong số 2 triệu giáo dân Việt Nam, thì đã có tới 1 triệu 750 ngàn ở miền Bắc. Rồi CS tới. CS đã làm dân bừng tỉnh, vỡ mộng về những cuộc cải cách mà chúng hứa hẹn. Có lẽ họ đã có thể chịu đựng dù phải chống chọi với thuế cao quá đáng, với chỉ tiêu mùa màng vượt mức, với chính sách lao công cưỡng bách và sự mất tự do. Nhưng khi mà quyền tự do thờ Chúa cũng bị tước đoạt – thường bằng những biện pháp tàn bạo nhất – thì họ biết đã đến lúc phải ra đi.

            Một vị niên trưởng nói: “Tụi Việt Minh thực điên khùng. Chúng ép buộc dân ở lại, bịa đặt nọ kia, để cầm chân dân, thậm chí ngăn chặn ở biên giới. Rồi thì chúng lại làm đủ điều khiến người dân bó buộc phải ra đi tỵ nạn! Có lẽ đây cũng là thánh ý Chúa đấy.”

            Nói VM chặn dân tỵ nạn ở biên giới (của vùng chúng chiếm đóng), là còn nói nhẹ. Dù hiệp định Genève đã quy định là ai cũng có quyền tự do chọn rời bỏ miền Bắc nếu họ muốn, CS đã vi phạm quy định đó ngay từ ngày đầu tiên chúng vừa ký hiệp định rồi.

            Như tôi đã nói ở trên, chúng dùng mánh lới đe dọa, bạo lực, và thậm chí tàn sát để ngăn chặn sự đi Nam một cách ồ ạt của người dân trong vùng. Tại Sài Gòn, ngày 22 tháng giêng năm 1955, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm đã tuyên bố: “Bổn phận của tôi là phải tố cáo trước thế giới tự do và trước cộng đồng Ki Tô Giáo về những hành động vô nhân đạo của Việt Minh nhằm đàn áp và cưỡng ép những người dân muốn rời bỏ vùng CS. Đó là những hành động vi phạm trắng trợn hiệp đình Genève.”

            Sau này ông Diệm đã ước lượng là có thể sẽ có một phần tư triệu người di cư nữa nếu không bị VM sách nhiễu. Theo tôi, con số đó phải gấp đôi. Dòng người liên tục kéo tới các trại Mỹ của những kẻ may mắn hơn, và của những kẻ bị thương tật, vật vờ, xác xơ là đầu mối để tính ra số người đã không thể ra đi. Ngoài ra, cũng còn phải nói đến hàng ngàn người khát khao tự do, nhưng đã không đủ can đảm hay sức khỏe để chấp nhận hiểm nguy.

            CS có nhiều mánh lới và những mánh lới khác nhau để cầm chân người dân ở lại với chúng. Chúng ra những luật lệ cấm 3 người trở lên của mỗi gia đình không được di chuyển cùng một lúc trên một chiếc xe buýt hay xe lửa; cấm trên hai người đi bộ chung với nhau trên những con đường hướng về vùng di tản. Điều này gây khó khăn cho người muốn di cư có gia đình đông con mà không muốn xa cách nhau.

            Tuy nhiên vẫn có những cha mẹ tuyệt vọng cho con cái đi trước, hai đứa hôm nay, hai đứa ngày mai, và căn dặn chúng là phải tìm đến các trại của người Mỹ. Hàng trăm lần tôi đã thấy những thiếu niên đi một mình, kiệt sức, buồn rầu, tới nơi và chờ đợi cha mẹ ở ven bìa trại. Nhiều khi chờ vô vọng.

            Tại nhiều nơi ở miền Bắc, CS ra luật phải có thông hành đặc biệt để đi từ tổng này sang tổng khác. Để xin được thông hành phải tốn nhiều tiền và phải qua những thủ tục hết sức rườm rà. Nhưng gia đình muốn di chuyển thành toán, không có cách nào khác.

            Sau khi đã chờ đợi rất lâu để có được thông hành rồi, một gia đình có thể sẽ lên đường đi bộ trên xa lộ tới Hải Phòng. Mười lăm, mười sáu ngày sau, khi lương thực đã cạn, chân đã mỏi, đã đau, trong người lại bị bệnh, lúc đó mới tới được biên giới tổng nhà. Họ bị đứng trước trở ngại nan giải: thông hành đã hết hạn.

            Cộng sản sẽ xét tấm thông hành mà họ khó nhọc lắm mới có được và cười bảo: “Đồng chí ơi, thông hành này chỉ có giá trị 14 ngày thôi. Đồng chí không biết sao? Ồ, đồng chí không biết đọc? Được thôi, hãy quay trở về xin thông hành mới.”

            Sau chiến tranh nhiều đoạn đường hãy còn gài mìn hay cạm bẫy. CS đào chúng lên. Nhưng thường không cho nổ để phá đi. Trái lại chúng vứt bừa vào trong ruộng lúa, bãi lầy, bụi rậm, làm như ngẫu nhiên vô tình. Nhưng đó lại là những nơi ở vùng biên giới giáp ranh với vùng di tản. Nếu người dân cố bò đi tìm tự do vào ban đêm rất có thể sẽ bị nổ tan xác.

            Vậy mà, điều khoản ghi trong hiệp định Genève như sau: “Bất cứ thường dân nào sống trong khu vực do một bên kiểm soát muốn ra đi để sống trong vùng thuộc phía bên kia, thì nhà cầm quyền trong khu vực đó phải cho phép giúp họ thực hiện theo ý muốn.”

           

 

Phụ Lục

 

 

Một lá thư dài của
Tổng Thống Ngô Đình Diệm

 

 

Đ

ây là thư riêng của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm đề ngày 29-5-1956, trả lời thư của ký giả Joseph Buttinger viết cho ông trước đó 9 tháng. Trong cuốn Vietnam, The Unforgettable Tragedy xuất bản năm 1977 Buttinger đã phổ biến cả hai lá thư này để thanh minh với bạn bè trong báo giới về liên hệ phức tạp giữa ông và ông Diệm. Đồng thời cũng chứng tỏ ông đã từng vận động với ông Diệm để các lãnh tụ đối lập có chỗ trong chính phủ lúc ấy như thế nào.

            Chúng tôi chỉ dịch đăng bức thư phúc đáp của Thủ Tướng Diệm, để nói lên sự liên hệ thân tình của ông đối với một ký giả Mỹ, đồng thời cũng cho thấy nhận xét và thái độ của Thủ Tướng đối với vài nhân vật đảng phái lúc ấy, tại sao ông không trọng dụng họ theo đề nghị của Buttinger.

            Trong phần tiểu sử Tổng Thống Diệm, chúng tôi đã trưng dẫn lời ký giả Buttinger hết lời ca tụng Thủ Tướng Diệm, coi việc ông làm như một phép lạ chính trị. Cho đến mãi năm 1957, ông còn được Tổng Thống Diệm tin dùng để cho ông làm thông dịch viên chính thức trong các cuộc diễn thuyết hay họp báo tại Hoa Kỳ, nhân chuyến viếng thăm chính thức của Tổng Thống Diệm

            Nhưng sau khi ông Diệm bị lật và bị giết, nhất là sau khi Hồ Chí Minh đã toàn thắng và chiếm trọn miền Nam, thì lập trường của Buttinger thay đổi 180 độ. Ông quay ra mạt sát Tổng Thống Diệm và hết lời ca tụng Hồ Chí Minh, và nặng lời chê trách các nhà lãnh đạo Mỹ. Bạn đọc của Hồ Chí Minh nhận định tổng hợp của Minh Võ, chương 19 hẳn đã biết.

            Joseph Buttinger (1906-1992), người Đức gốc Áo, từng là chủ tịch ban chấp hành đảng Dân Xã Áo Quốc khi mới 28 tuổi. Năm 33 tuổi ông sang Mỹ. Và 4 năm sau thành công dân Mỹ. Ông viết nhiều tác phẩm về Việt Nam trong đó có: Con Rồng Nhỏ, lịch sử chính trị Việt Nam, 1958; Dân thiểu số ở Việt Nam, 1961; Con Rồng nghênh chiến, lịch sử chính trị Việt Nam, 1967; Con Rồng Thách Đấu, lịch sử Việt Nam, 1972 và Việt Nam: Thảm Kịch không thể nào quên, 1977. Đọc Con Rồng Nghênh Chiến gần 1300 trang thì thấy rõ tác giả có xu hướng xã hội tả phái rõ rệt.

            Sau đây là thư phúc đáp của Thủ Tướng Diệm:

            (Bản dịch của MV từ bản dịch Anh văn của J. But-tinger từ nguyên bản bằng Pháp văn)

 

          Sài Gòn ngày 29 tháng 5 năm 1956

            Ông Buttinger thân mến,

            Gần đây, nhân khi sửa chữa văn phòng, nhân viên của tôi đã tìm thấy lá thư tôi trả lời thư tháng 8 năm ngoái của ông…, kẹt giữa 2 ngăn kéo… Xin ông thứ lỗi cho sự chậm trễ vô tình này khiến ông đã phải lo phiền trong một thời gian quá lâu cho Việt Nam mà ông đã tỏ tình thân hữu rất tích cực..

            Nhưng sự bất tiện, phiền hà này lại có lợi cho tôi. Vì nó cho tôi dịp đọc lại một lần nữa với sự xúc động sâu xa thư của ông, một lá thư chứa chan mối thương cảm đối với đất nước tôi và cả sự quan tâm lo lắng nữa. Đó là điều rất đáng trân trọng.

            Nó cũng đặc biệt trong sáng và biểu lộ sự sáng suốt của tác giả. Vì một năm trước, ông đã tiên liệu là cộng sản sẽ hành động vận dụng danh từ “tổng tuyển cử” mà thế giới tự do rất nhậy cảm, để tìm cách thôn tính miền Nam VN. Chắc ông biết rằng chúng tôi đã theo lời khuyên của ông để tổ chức các cuộc bầu cử tự do ở miền Nam, bất chấp những cố gắng phá hoại của Việt Cộng và sự e sợ vụ lợi của các đảng phái gọi là yêu nước.

            Một số vấn đề ông nêu lên trong thư đã được giải quyết đúng cách. Mặc dầu thời gian đã trả lời cho nhiều câu hỏi khiến ông bận tâm lúc ấy, tôi vẫn còn muốn cùng ông trao đổi về đề tài này, vì tôi nghĩ ông khó có thể đi sâu vào trọng tâm của người và việc của xứ sở này như tôi. Tuy nhiên tôi không mong muốn ông phải có kinh nghiệm đó.

            Gần trăm năm đô hộ của thực dân và mười năm chiến tranh khốc liệt đã để lại hậu quả sâu đậm đối với Việt Nam, về thể chất đã đành, nhưng trên hết là về mặt tâm hồn. Thế hệ của những kẻ cấu thành giới thượng lưu để lãnh đạo xứ sở này, tất cả đều được đào tạo tại các trường của Pháp. Vào thời gian họ theo học ở đó, có một cái mốt thời thượng, hoài nghi những điều nghiêm chỉnh, ảnh hưởng cả đến thái độ thờ ơ và thế tục.

            Nước Pháp đã trả giá và hãy còn đang trả giá đắt cho sự sa sút tinh thần và trí tuệ trong khoảng thời gian 1930 đến 1940. Nhưng phản ứng của sự sa sút về văn hóa này là những thanh niên Việt khác tự lao đầu vào chủ nghĩa Phát-xít hay chủ nghĩa Cộng Sản. Chính do nhóm sau này mà các đảng CS ở Đông Dương ra đời. Trong khi đó lần lượt theo thứ tự thời gian các nhóm Việt Quốc, Cao Đài, Đại Việt, Hòa Hảo cũng thành hình. Trái với CS được đào tạo một cách nghiêm chỉnh, các đảng quốc gia Việt và các nhóm Phát-xít vắng bóng giới trí thức không thích dính líu, vì vậy chẳng đóng vai trò gì quan trọng cho Việt Minh hay tổ chức nào khác, những đảng quốc gia của chúng tôi rất kém cỏi về mặt chủ thuyết cũng như về tổ chức.

            Vì vậy mà họ dễ bị Việt Minh loại trừ và thực dân chế ngự. Không thực tiễn và thiếu tinh thần, họ nghĩ chỉ cần tự xưng là chống cộng cũng đủ để thắng cộng, và họ còn nghĩ tất cả những gì cần làm là tự xưng cách mạng để được phép làm mọi sự dưới ánh sáng mặt trời. Trong chương trình hành động của những đảng phái này, không thấy có một chữ chống phong kiến hay chống nạn bè phái.

            Ngoài ra, mặc dù những tuyên bố của họ, không có lấy một đảng nào thực sự tin tưởng là có thể chống lại CS. Tôi chỉ đã nhận ra điều đó sau sáu tháng cầm quyền. Khi tôi ở sân bay Orly để lấy máy bay về nước với tư cách thủ tướng chính phủ Sài Gòn, ông Hoàng Xuân Hãn đã bảo tôi, ông ta sẽ sẵn sàng để tôi dùng nếu tôi sẵn lòng thương thuyết với Việt Minh. Đàng khác ông Nguyễn Mạnh Hà lại đang cố gắng thực hiện kế hoạch sống chung (với CS). Còn ông Hồ Hữu Tường, một người từng theo phe Tờ-rốt-kít (đệ Tứ) thì đã thiếu lương thiện hơn những kẻ khác, khi giấu không cho ông (Buttinger, MV) biết cái chương trình “Trung Lập Chế “ (Neutralism), mà ông ta có ý dùng làm bình phong che giấu chủ nghĩa sống chung cùng tồn tại với Việt Minh, nhưng là cam chịu sự chỉ dẫn của Việt Minh. Qua trung gian một người em là điệp viên CS, Tường đã bắt liên lạc với ông Phạm Công Tắc, hòng đưa Cao Đài vào bẫy Việt Minh. Một trung tá Cao Đài từng là chính trị viên và cận thần của Phạm Công Tắc đã tiết lộ rằng tất cả những mánh lới đó đã khởi sự ngay từ tháng 7 năm 1954, sau cuộc gặp gỡ giữa Phạm Công Tắc và Phạm Văn Đồng ở Genève.

            Vì thế Hồ Hữu Tường đề nghị “cung cấp cho ông Phạm Công Tắc phương tiện tài chính tối cần thiết để thành lập phong trào trung lập tại Đồng Tháp Mười trước đó đã tuyên bố tự trị.

            Cũng chính Hồ Hữu Tường khi trở thành cố vấn của Bảy Viễn đã thúc đẩy Bảy Viễn khai chiến chống chính phủ. Vào thời gian anh ta phàn nàn với ông rằng anh ta bị chính phủ săn đuổi, chính là lúc anh ta di chuyển tự do từ Sài Gòn tới Paris nhiều lần. Ai cũng biết anh ta không thể có phương tiện tự túc để có thể di chuyển rất nhiều chuyến đi loại đó.

            Còn về bác sĩ Nguyễn Tôn Hoàn, ông này đã ba lần từ chối làm việc với tôi, viện cớ rằng chỉ có bộ Quốc Phòng, chứ không thể bộ nào kém hơn, mới xứng với tham vọng của ông ta. Đàng khác các phe Cao Đài, Bình Xuyên và Hòa Hảo, không phe nào đồng ý cho Nguyễn Tôn Hoàn nhận bộ đó, vì tất cả đều âm mưu tranh đấu để riêng phe mình nắm bộ Quốc Phòng. Đúng là Nguyễn Tôn Hoàn có nói với tôi rằng anh ta sẽ đảm nhận bộ đó với sự cộng tác của một nhóm nhỏ Hòa Hảo dưới quyền Lâm Thành Nguyên, và nếu không được trao bộ quốc phòng thì sẽ nhận chức đại sứ tại Thái Lan. Thực ra, điều mà Hoàn thực sự hằng ước mơ là trở thành lãnh tụ của một phái Đại Việt mới có quân đội riêng và một vùng tự trị. Anh ta đã luôn luôn theo đuổi giấc mộng đó một cách hăm hở không ngừng nghỉ. Anh ta đã hợp tác với người Pháp, để có được một vùng riêng cho mình. Chẳng may, thủ lãnh biệt động quân Đại Việt mà Pháp đặt ở Cai Lậy, có thể trở thành cái nhân của một phe phái mới, lại ly khai khỏi nhóm Nguyễn Tôn Hoàn để tranh đấu cho mộng riêng của anh ta. Tới nước đó, Hoàn bèn phải quay trở lại vói Lâm Thành Nguyên, một tiểu tướng của Hòa Hảo ở Châu Đốc. Nguyên lúc ấy đang cố xin tôi cho y coi tỉnh Hà Tiên trong vịnh Xiêm La như phần thưởng về lòng trung tín. Nguyễn Tôn Hoàn cũng đang vận động một cách hào hứng cho việc thương lượng đó. Khi Hoàn nói sẵn lòng nhận chức đại sứ ở Băng Cốc, thì một trong những lý do của anh ta là để có thể giúp Lâm Thành Nguyên một tay (buôn vũ khí, xây dựng chiến khu bí mật ở Thái Lan với những dân tỵ nạn nhờ sự giúp đỡ của bạn hữu, những người thuộc phe Hòa Hảo). Một lý do khác là anh ta không tin rằng có thể có cách nào chống lại nổi Việt Minh hay Pháp. Đó chính là điều anh ta nói với Ngô Đình Nhu em tôi khi anh ta xin chú ấy can thiệp với phe Bình Xuyên, đang nắm Cảnh Sát Công An, cấp chiếu khán cho anh ta có thể bay sang Pháp.

            Khi Hoàn từ chối không nhận tham gia chính phủ trung ương, tôi đã đưa ra một giải pháp khác mời Đại Việt hợp tác ở những cấp thấp hơn. Bằng cách đó, họ đã được giao ngành Cảnh Sát, Công An và nhân dân tự vệ cấp tỉnh của một tỉnh quan trọng là Quảng Trị ở ngay vĩ tuyến 17. Nhưng Hoàn cho đàn em tin rằng họ sẽ được Mỹ và Pháp ủng hộ, và ra lệnh cho đảng viên ở Quảng Trị và Thừa Thiên, cấu kết với phe Nguyễn Văn Hinh, và với sự khuyến khích của Pháp, quay lại ly khai với chính phủ và thành lập một khu bí mật ở Ba Lòng. Tuy được Pháp vũ trang và tiếp tế, nhóm ly khai này đã bị đánh bại hầu như ngay tức khắc. Bởi vì hầu hết binh sĩ đã từng theo họ đã rời bỏ khi vừa nhận ra mình bị lợi dụng và phản bội. Nhóm Đại Việt Nguyễn Tôn Hoàn hiện đang ẩn náu nhờ người Pháp che chở, trước nhất ở trong trại Chanson. Tại đây người Pháp đã lập cho họ một đài phát thanh mạnh dùng để đả kích loạn xạ chính phủ hàng ngày bằng những luận điệu tuyên truyền bỉ ổi. Sau đó là ở Seno (Ai Lao. MV) là nơi họ tiếp tục vai trò phản bội. Vừa đây Việt Tấn Xã đã công bố một lá thư của Nguyễn Tôn Hoàn gửi cho Guy Mollet xin Pháp can thiệp để bảo vệ Việt Nam. Nguyễn Tôn Hoàn không phải là thí dụ duy nhất về chính trị gia, không được huấn luyện (về chính trị), tìm cách chiếm quyền bằng sức mạnh, mà họ cũng chẳng có.

            Một số khác cố vận dụng một nhóm Cao Đài ly khai để thực hiện mộng đảo chính kiểu Phát-xít với sự trợ giúp của ngoại bang, như trường hợp bác sĩ Phan Quang Đán chẳng hạn. Anh này đánh lừa tướng Nguyễn Thành Phương bằng cách làm cho Phương tin rằng anh ta được đảng Dân Chủ Mỹ ủng hộ, và được coi như con cưng của đảng Dân Chủ. Một người trong nhóm Phan Quang Đán là Nguyễn Bảo Toàn đã dựng một cửa hàng tại Nữu Ước. Anh ta tới đó sau khi lấy cắp 5 triệu Đồng tức toàn bộ ngân quỹ của đảng Dân Xã Hòa Hảo do tướng Nguyễn Giác Ngộ lãnh đạo. Hiện tướng Ngộ đang chờ anh ta về để nhả số tiền đó ra. Nguyễn Bảo Toàn thường nói tiếng nói Dân Chủ thuần túy, nhưng lại là kẻ chống bầu cử ở miền Nam. Đã bao lần Toàn đến gặp tôi để khuyên không nên dùng biện pháp bầu cử để bầu Quốc Hội, lấy cớ là chắc chắn Việt Minh sẽ thắng. Theo ông ta, cách khôn ngoan hơn là trưng cầu dân ý về một chủ tịch đoàn gồm những thành viên của nhiều đảng phái khác nhau mà có lẽ tôi sẽ có thể chỉ định. Thực ra đã không có ai trong những vị đó dám đưa tên ứng cử trong các cuộc bầu cử hồi tháng 3. Vì vốn không được nhân dân tín nhiệm, họ sợ sẽ thất bại.

            Đây là một vài loại người hay tổ chức cho rằng họ có thể cai trị xứ này, ở giữa những hoàn cảnh ngoại lệ như hoàn cảnh mà Việt Nam đang trải qua. Ngay cả những chính quyền tự do nhất cũng luôn luôn dự trù phải có một hệ thống chuyển quyền đối với một dân tộc đang trải qua trạng thái từ một thuộc địa chuyển sang một nước độc lập, vì sợ sẽ thụt lùi về trạng thái nô lệ với những thành phần phong kiến đang tồn tại. Hoặc giả vì thiếu nhân tài để điều hành chính phủ hay để bảo vệ xứ sở khỏi những tham vọng của đế quốc ngoại lai. Khi nhìn vào những khó khăn gặp phải hàng ngày từ mọi lãnh vực, người Việt chúng tôi hầu như muốn tin rằng những thế lực (đảng phái) nói trên có thể có lý khi họ nghĩ vậy. Bởi vì chúng tôi đã phải cố gắng liên tục căng thẳng không ngừng nghỉ trong khi cơ chế chính quyền quốc gia bị ung thư Cộng Sản tàn phá. Nhưng tự buông thả để rơi vào sự cám dỗ của những giải pháp dễ dàng nhưng cũng ảo tưởng là một sự phản bội đối với vận mệnh của chúng tôi. Bởi vì không có gì dễ dàng trong cuộc sống của một con người hay của một dân tộc. Điều chính yếu là phải có một lý tưởng và cố gắng thực hiện lý tưởng đó bất chấp mọi gió bão thời cuộc. Đó chẳng phải là tinh túy của dân chủ sao?

            Bởi vì dân chủ không phải là thứ gì có thể đạt được một lần là xong, mà là một cố gắng kiên trì đi tìm những phương tiện thích hợp để bảo đảm cho nhân loại một sự tự do tối đa, một trách nhiệm tối đa và một cơ hội tốt nhất cho cuộc sống tinh thần. (Xin xem thông điệp tôi gửi Quốc Hội ngày 12-4-1956). Mục đích của chúng tôi là với những phương tiện hiện có và trong giới hạn mà lịch sử áp đặt lên chúng tôi, tạo được một thể chế cởi mở, để phân biệt khỏi một hệ thống chính trị đóng kín được dựng lên xung quanh một người hay một đảng.

            Trong quá trình tranh đấu và tiến bộ của chúng tôi, lối đi càng ngày càng mở rộng, nhờ Ơn Trên. Chúng tôi đã có một quốc hội dân cử. Nay mai sẽ có hiến pháp. Khi nghĩ đến những nước khác ở Đông Nam Á dù không gặp những khó khăn như chúng tôi mà cũng cần tới 5 năm, hay 8 năm mới có được bản hiến pháp, thì chúng tôi có thể cảm thấy hài lòng về những gì đã đạt được trong một thời gian ngắn như vậy. Tình hình hiện nay chắc hẳn đã tốt hơn cách nay một năm. Nhưng năm nay là năm quyết định của chúng tôi. Không thể có chỗ cho những chính khách mạo hiểm hay tay mơ. Phải đối diện với một kẻ thù không thể thắng, bậc thầy về nghệ thuật chính trị, chúng tôi cần phải đưa ra một mặt trận vững chắc để kháng cự, không tì vết nứt rạn từ mọi góc độ.

            Nêu thế để, thưa ông Buttinger thân mến, cho ông biết tôi biết ơn dường nào đối với ông và các bạn của chúng ta ở bên ấy đã nâng đỡ chúng tôi. Tôi hy vọng ông sẽ có dịp trở lại Việt Nam này một lần nữa. Nơi đây chắc chắn ông sẽ được tiếp đãi một cách nồng hậu nhất. Dịp đó ông nên dẫn ông Sachs theo, vì không dễ dàng để mà viết về lịch sử hiện đại của dân tộc Việt Nam từ Paris. Trong vòng một năm qua đã có nhiều thay đổi tại đây. Các ông sẽ có thể thấy rõ hơn nhiều những gì đang xảy ra khi đến xem tại chỗ.

            Nhưng tôi thấy đã muộn rồi và phải chuẩn bị tiếp khách đã lấy hẹn. Trong khi mong chờ cái thú được gặp lại ông sớm, xin gửi ông lời chúc tốt đẹp nhất.

            NGÔ ĐÌNH DIỆM.

           

 

Lời cuối sách

 

 

 

Q

ua gần 400 trang sách với những chứng liệu rõ ràng minh bạch chúng tôi hy vọng bạn đọc đã thấy một Ngô Đình Diệm khác hẳn những gì mà một số đông tác giả có thiên kiến hay ác cảm với ông đã mô tả về ông trong mấy thập niên qua.

          Chẳng những ông không quá kém cỏi về chính trị mà còn là một chính khách có khả năng phi thường và những viễn kiến lạ lùng như một nhà tiên tri. Ông không phải là người chẳng làm được gì mà chỉ may mắn được Mỹ và Vatican “bồng lên đặt vào ghế thủ tướng”. Trái lại kể từ khi rũ áo từ quan năm 32 tuổi, ông đã không ngừng vận động, tranh đấu cho nền độc lập hoàn toàn của Tổ Quốc, luôn luôn nêu cao ngọn cờ chính nghĩa dân tộc. Những việc ông làm trong thời gian cầm quyền, nhất là trong hai năm đầu đã vượt xa hẳn những người đả kích, phê bình ông. Ngay cả những ký giả thiên cộng hay tả phái cũng gọi đó là phép lạ về chính trị.

          Người ta đã phê bình ông độc tài. Nhưng so sánh với nền độc tài đẫm máu của miền Bắc, thì đó chỉ là một nền độc tài nhân từ khó tránh trong một nước đang có chiến tranh. Không thiếu người còn phê bình ông độc tài chưa đủ.

          Người ta đã cáo buộc ông kỳ thị, đàn áp Phật Giáo. Nhưng phái đoàn điều tra của Liên Hiệp Quốc đã kết luận không có kỳ thị hay đàn áp. Những nhân vật nổi tiếng như Nixon, Bảo Đại đều khẳng định những hoạt động đấu tranh của một phe nhóm Phật Giáo quá khích là mưu đồ chính trị, chứ không phải vì tự do tôn giáo.

          Chỉ cần đọc lại hai trang 91-92 (chú thích 65) thì thấy rõ vị thượng tọa đầy tham vọng và có ảnh hưởng Thích Trí Quang, mà cho đến nay vẫn còn nhiều người lầm tưởng là có công tranh đấu cho đạo Phật, thực ra chỉ là một chuyên viên khuấy động quần chúng. Ông đã liên lạc, mưu tính với những người Mỹ muốn giết ông Diệm, như Cabot Lodge với mưu đồ thỏa mãn tham vọng quyền lực chính trị. Ông không phải là một vị chân tu đáng kính. Người cung cấp chứng liệu đó chính là một tướng làm đảo chính.

          Cứ đọc hai trang 204-205 (chú thích 22), thì sẽ thấy người Mỹ đã “tổ chức, và khởi động” (nguyên văn của bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ McNamara: Organize and set in motion) cuộc đảo chính ra sao, và đã cử đại diện đến chứng kiến, điều khiển, theo dõi, giúp đỡ, ủy lạo cuộc đảo chính ra sao. Chứng liệu này do chính một tướng làm đảo chính khác cung cấp. Quân sĩ Việt Nam Cộng Hòa trước đây thật xấu hổ vì trong hàng ngũ mình có những kẻ muối mặt đi nhận tiền của ngoại bang để giết một nhà ái quốc.   

          Chỉ khi nào chúng ta nhìn ra mối nhục đó và trả lại danh thơm tiếng tốt cho lãnh tụ khả kính nhất của người Quốc Gia thì mới mong con cháu chúng ta có cơ hội chiến thắng Việt Cộng là những kẻ đang bắt toàn dân tôn thờ thần tượng Hồ Chí Minh và thần phục đàn anh phương Bắc.

š ›

 

Thư Mục

· Tác giả Việt Nam

Bảo Đại: Con Rồng Việt Nam, bản dịch của Nguyễn Phước Tộc, California, 1990

Bùi Diễm: In The Jaws of History, viết chung với David Chanoff, nxb Houghton Miffin Co, Boston, 1987

Bùi Tín: Hoa Xuyên Tuyết, Nhân Quyền, Paris, 1991.

Cao Thế Dung (viết với Lương Khải Minh):
– Làm Thế Nào Để Giết Một Tổng Thống? Hòa Bình, Sài Gòn, 1965
– Việt Nam 30 năm máu lửa, nxb Alfa, Falls Church, VA, 1991

Duyên Anh: Ngày Dài Nhất, Xuân Thu, USA, 1988

Đoàn Thêm: Hai Mươi Năm Qua: 1945-1964, việc từng ngày, Xuân Thu, California.

Đỗ Mậu: Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi, Văn Nghệ, California, 1993.

Đỗ Thọ: Nhật Ký Đỗ Thọ, Hòa Bình, Sài Gòn, 1970

Hoàng Hữu Quýnh: Tôi Bỏ Đảng, Paris, 1989.

Hoàng Lạc Hà Mai Việt: Việt Nam 1954-1965 Những sự thật chưa hề nhắc đến, 1991

Hoàng Ngọc Thành và Thân Thị Nhân Đức: Những Ngày Cuối Cùng của TT Ngô Đình Diệm, Cali, 1994

Hồ Sỹ Khuê: Hồ Chí Minh, Ngô Đình Diệm và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, Văn Nghệ, Cali, 1992

Huỳnh Văn Lang: Nhân Chứng Một Chế Độ, Văn Nghệ, Nam Cali, 1999 (?)

Lý Đông A:
Huyết Hoa, Vạn Thắng thư cục, 1992
Đạo Trường Ngâm, Vạn Thắng, 1992

Minh Võ: Ngô Đình Diệm, Lời khen tiếng chê, Thông Vũ, tái bản lần 2, 2002

Nguyễn Cao Kỳ: Twenty Years And Twenty Days, Stein and Day, NY, 1076

Nguyễn Chánh Thi: Một Trời Tâm Sự, Xuân Thu, Cali, 1987

Nguyễn Hữu Duệ: Nhớ Lại Những Ngày Ở Cạnh Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Nam Cali, 2000

Nguyễn Ngọc Phách: Việt Sử Đương Đại qua 200 câu vè bất hủ, Melbourne, Australia, 2007

Nguyễn Văn Châu: Ngô Đình Diệm Và Nỗ Lực Hòa Bình Dang Dở, Xuân Thu, 1989, bản dịch của Nguyễn Vy Khanh từ nguyên tác Pháp văn “Ngô Đình Diệm en 1963: Une autre paix manquée”, luận án sử học, trường Đại Học Paris VII, 1982.

Nguyễn Văn Chức: Việt Nam Chính Sử, hay là Những sai lầm trong “Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi” và gian trá của Đỗ Mậu, 1992

Nguyễn Văn Minh: Dòng Họ Ngô Đình, Giấc Mơ Chưa Đạt, Hoàng Nguyên, Nam Cali, 2003

Phạm Kim Vinh:
– Những Bí Ẩn Về Cái Chết Của Việt Nam, Kissinger trong bẫy sập
, Người Việt, Cali, 1977.
Việt Nam Tự Do, từ Ngô Đình Diệm đến lưu vong, Nam Cali, 1987

Phạm Văn Bính: Ông Vua của nền Cộng Hòa Đệ Nhất: Ngô Đình Diệm

Phạm Văn Sơn: Việt Sử Tân Biên, Đại Nam, Sài Gòn, 1972

Phan Bội Châu: Phan Bội Châu Niên Biểu, Nhóm Nghiên Cứu Sử Địa, Sài Gòn, 1971.

Thích Hải Ấn và Hà Xuân Liêm: Lịch sử Phật Giáo Xứ Huế, nxb Tp HCM 2006

Trần Thị Liên: Les Catholiques et La République Démocratique du Vietnam

Trần Văn Đôn:
Our Endlless War: Inside Vietnam, San Rafael, Calif. Presidio Press, 1978
Việt Nam Nhân Chứng, nxb Xuân Thu, Cali, 1989

Trương Như Tảng (viết chung với David ChanoffĐoàn Văn Toại): A Việt Cộng’s Memoir, Harcourt Brace Jovanovich, San Diego, 1985

Văn Tiến Dũng: Về Cuộc Kháng Chiến Chống Mỹ Cứu Nước, nxb Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, 1996

Vĩnh Phúc: Những huyền thoại và sự thật về chế độ Ngô Đình Diệm, Tam Vĩnh, London, 2006.

Vũ Thư Hiên: Đêm Giữa Ban Ngày, Văn Nghệ, Nam Cali, 1997

Xuân Vũ: Mạng Người Lá Rụng, Xuân Thu, 1990

· Tác giả ngoại quốc:

Bouscaren, Anthony Travick: The last of the mandarins: Diem of Vietnam, Duquesne University Press, Pitsburg, PA, 1965

Buttinger, Joseph:
– The Smaller Dragon
, Frederick A. Praeger, NY, 1958
– Vietnam: The Unforgettable Trageedy, Horizon Press, 1977

Catton, Philip E.: Diem’s Final Failure, Prelude to America’s War In Vietnam, University Press Of Kansas, 2002

Colby, William E. and Peter Forbath:
Honorable Men, My Life In The CIA, Simon and Schuster, NY, 1978
– Lost Victory, Contemporary Books, NY, 1989

Devillers, Philippe:
Histoire duViet-Nam de 1940 à 1952, Troisìeme édition revue et corrigée, Édition du Seuil, Paris VI ème, 1952
– End of A War, from French original: La Fin d’une Guerre, Frederick A. Praeger, Inc. NY, 1970

Dooley, Thomas A.: Deliver us from evil, the story of Vietnam’s flight to freedom, Farrar, Straus and Giroux, 1977 (21st edition)

Duncanson, Dennis J.: Government And Revolution in Vietnam, Oxford University Press, 1966

Fall, Bernard: The Two Vietnams, Frderick A. Praeger, USA 1967

Halberstam, David:
– The Making of a Quagmire
, Random House, NY, 1965
The Best And The Brightest

Hammer, Ellen:
The Struggle for Indochina, Stnaford University, 1954
A Death in November: America In Vietnam, 1963, E. P. Dutton, 1987

Hayslip, Le Ly: When Heaven And Earth change places, Double Day, NY, 1989

Higgins, Marguerite: Our Vietnam nightmare, Harper & Row, 1965

Jacobs, Seth: America’s Miracle Man in Vietnam, Duke University Press, Durham & L’Oneon, 2004

Karnow, Stanley: Vietnam, A History, Pinguin Group, NY, 1991

Kissinger, Henry: Years Of Renewal, Simon and Schuster, NY, 1999

Ladejinsky, Wolf: Agrarian Reform in The Republic of Vietnam, Free Press of Glencoe, 1961

Lindholm, Richard W.: Vietnam the first five years (1954-1959), Michigan State University Press, 1959

Lodge, Henry Cabot: The Storm has many eyes, W. W. Norton Inc. NY, 1973.

McNamara, Robert:
– In Retrospect: Tragedy and Lessons from Vietnam
, random House Inc, NY, 1995
– Argument without end, in search of answers to the Vietnam tragedy, Public Affairs, NY, 1999

Mark Moyar: Triumph Forsaken The Vietnam War, 1954-1965, Cambridge University Press, 2006

Maneli, Mieczyslaw: War Of The Vanquished, bản Anh ngữ của Maria De Gorgey, Harper & Row, 1971

Miller, Edward: Vision, Power And Agency: The Ascent of Ngô Đình Diệm, Journal Of SEA Studies, Oct. 2004

Newman, John M.: JFK And Vietnam. A Time Warner Co. 1992

Nixon, Richard M.:
The Real War, Warner Books Inc., NY, 1980
Real Peace, Warner Books Inc., NY 1984
No More Vietnams, 1985
1999, Victory Without War, Simon and Schuster, NY, London, Toronto, Syney, Tokyo, 1988

Nolting, Frederick: From Trust to Tragedy, Praeger, NY, 1988

Schlesinger, Jr., Arthur M.: A Thousand Days: John F. Kennedy In The White House, The Riverside Press, Cambridge, 1965

Shah, Ikbal Ali, Sirdar: Vietnam, 1960

Shaplen, Robert: A Reporter in Vietnam, NY, Sept 22, 1962

Sheehan, Neil:
A Bright Shining Lie, Random, NY, 1988
After The War Was Over, 1999

Strausz-Hupé, Robert: Prootracted Conflict, Harper and Brothers, NY, 1959

Suzanne Labin: Vietnam, An Eye-Witness Account, Crest-wood Books, VA, 1964 (Bản Anh ngữ của tác phẩm này xuất bản và tái bản 3 lần liền trong 3 tháng 7, 8 và 9 năm 1964. Bản tham khảo ở đây là lần thứ 3. Không biết đã phải là lần chót chưa.)

Taylor, Maxwell D.: Swords And Plowshares WW. Norton and Company Inc. NY, 1970

Thompson, Robert: Defeating Communist Insurgency: The lesson of Malaya and Vietnam, NY, Frederick A. Praeger 1967

Warner, Denis: The Last Confucian: Vietnam, South-East-Asia, and the West, The Macmillan, NY, 1963

Winters, Francis X.: The Year Of The Hare: America in Vietnam, Jan.25, 1963 to Feb.15, 1964, University of Georgia Press, Athens, 1997

Young, Marilyn B.: The Vietnam Wars, 1945-1990, Harper Colllins, 1991

· Báo chí Việt Ngữ:

Báo Ánh Sáng, số 11-11-1935

Chính Việt số 11, tháng 11-2007

Con Đường Chính Nghĩa

Diễn Đàn Phụ Nữ, Quận Cam, 1992-1998

Đời số 29, Sài Gòn, 23-10-1970

Tân Văn số 9, tháng 4,2008

Thế Kỷ 21, Quận Cam, số 208, tháng 8 năm 2006

Tiếng Dân 27-12-1933

· Báo chí ngoại ngữ:

Journal of Southeast Asian Studies, London, October 2004

Life May 2nd, 1955

New York Times Dec. 31, 1990

The Commonwealth, September 21, 1962

Time April, 1955 & Jan. 14, 1966

US News & World Report Aug. 10, 1998

Washington Post Nov 11, 1995


Danh Mục

 

 

A Ă Â

A Time Warner, 152

Afghanistan, 133

Ai Lao, 94, 202, 350, 351, 355, 356, 358, 362, 382, 400, 429

Aimée, 26

Alexandre De Rhodes, 310

Algérie, 53

All or Nothing, 142, 166

Alsop, Joseph, 56, 148, 164, 369

Apollo, 75

Auriol, Vincent, 42

Ăng-ghen (Friedrich Engels), 186

Ấn Độ, 30, 40, 42, 50, 58, 76, 147, 160, 162, 208, 226, 391

Ấp Bắc, 238, 331, 358, 359, 360

Ấp Chiến Lược, 93, 95, 119, 136, 153, 157, 164, 167, 237, 277, 284, 286, 290, 354, 356, 360, 368, 378

Âu Châu, 45, 46, 48, 51, 133, 149

B

Bà Đen, 62

Ba Lan, 58, 147, 154, 158, 163, 170, 173, 229, 391, 401, 403

Ba Lòng, 92, 429

Bà Ngải, 409

Ba Nhĩ Cán, 168

Ball, George, 112, 365, 367, 378

Ban Mê Thuột, 78, 91, 130, 273

Bành Đức Hoài, 293

Bảo Đại, xvi, 27, 31, 32, 33, 34, 36, 37, 40, 41, 42, 44, 45, 48, 49, 51, 52, 53, 54, 55, 60, 61, 63, 64, 65, 68, 69, 100, 120, 126, 127, 128, 141, 207, 209, 218, 240, 243, 246, 247, 251, 252, 261, 262, 274, 282, 283, 288, 289, 302, 304, 315, 338, 341, 361, 382

Bảo Long, 44

Bảy Viễn, 52, 61, 62, 302, 341, 427

Bắc Bộ Phủ, 281

Bắc Kinh, 164, 166, 187, 229, 230, 252, 378

Bắc Việt, 36, 38, 53, 67, 90, 94, 113, 120, 126, 133, 142, 148, 150, 152, 157, 160, 166, 167, 168, 174, 176, 180, 181, 185, 187, 189, 190, 202, 213, 214, 217, 218, 223, 232, 259, 333, 336, 349, 361, 378, 388, 405, 410, 416

BBC, 165, 206

Beech, Keyes, 117

Bến Hải, 57, 77, 81, 147, 259, 324

Bến Ngự, 30, 32

Bến Tre, 126, 344

Bỉ, 45, 49, 51, 139, 148, 164

Bigart, Homer, 353, 357

Bình Tuy, 149, 275, 276, 289

Bình Xuyên, 52, 60, 61, 62, 63, 65, 236, 239, 243, 248, 302, 341, 427

Bollaert, Émile, 36, 37, 38, 39, 40, 41

Boris, 139

Bosch, (President), 372

Bose, Subha Chandra,30

Bouillet, 87

Bouscaren, Anthony Trawick, 22, 31, 41, 96, 119, 121

Brasil, 106, 133

Brewster, tầu, 406

Brookings, 115

Browne, Malcolm, 202, xiii, 312,378, 357

Brussel, 51

Bùi Bằng Đoàn, 231

Bùi Bằng Phấn, 205

Bùi Bằng Thuận, 205

Bùi Chu, 405, 406, 407, 408

Bùi Diễm, 214, 265, 274, 311, 346

Bùi Đình Đạm, 107

Bùi Quang Chiêu, 337

Bùi Tín, 205, 206

Bundy, McGeorge, 350, 372

Burchett, Wilfred, 117, 195, 358

Bush, George (cha), 169, 215

Buttinger, Joseph, 31, 33, 56, 57, 73, 74, 346, 347, 348, 423, 424, 426, 431

Buzon, Jacques de, 148, 164

Bửu Hội, 105, 133, 147, 154, 164, 206, 291

Bửu Lộc, 53, 54, 61, 133, 261

Bửu Thọ, 208

Byron, George Gordon, 135

C

Cách Mạng Tháng Tám, 33, 192

Cải Cách Điền Địa, 78

Cải Cách Ruộng Đất, 68, 77, 173, 190, 273, 283, 284, 300, 342, 397, 405, 408

Cai Lậy, 60, 245, 428

Cam Bốt, 229

Cam Địa, Thánh, 208

Cambridge, 106, 111, 196, 329, 343

Camp de la Pagode, 386, 412

Canada, 47, 58, 206, 403

Cannes, 54, 288

Cao Đài, 52, 62, 64, 65, 66, 101, 248, 287, 426, 427, 429

Cao Ly, 53

Cao Thế Dung, 99, 110, 124, 134, 137, 316, 379

Cao Văn Luận, 86

Cao Văn Viên, 208, 250, 374

Cao Xuân Dục, 279, 280

Cao Xuân Tiếu, 280

Cao Xuân Vỹ, xvii, 50, 103, 108, 109, 123, 126, 127, 130, 147, 180, 208, 217, 218, 271, 275, 276, 278, 279, 307

Caravelle, 89, 90, 137, 346

Casey, R.G., 75

Cauvin, Gerald, 394, 395, 401

Cần Lao, 50, 95, 111, 134, 207, 284, 287, 288

Ceylon, 106

CIA, 45, 88, 99, 119, 127, 129, 174, 179, 185, 194, 195, 202, 210, 229, 238, 312, 316, 338, 339, 346, 366, 369, 370, 377

Cleopatra, 160

Colby, Barbara, 238

Colby, William E., 129, 194, 195, 238, 367

Collins, J. Lawton, (Lightning Joe), 63, 71, 214, 244, 245, 339, 340, 341, 342, 388

Colorado, 317

Con Rồng Việt Nam, 27, 28, 40, 53, 55, 127, 209, 246, 247, 251, 316

Conein, Lou, (Lucien), 107, 111, 119, 210, 210, 211, 316, 370, 372, 377, 380

Costa Rica, 106

Costello, Bill, 49

Cox, thuyền trưởng, 388

Côn Đảo, 129

Công Đoàn Đoàn Kết, 170

Công Đoàn Độc Lập, 170

Cộng Hòa Việt Nam, ix, x, 64, 67, 69, 77, 87, 128, 147, 189, 237, 262, 307, 308, 378

Cộng Sản Đông Dương, 192

Công Tử Hà Đông, xvii, 159, 319, 320, 321, 322, 324, 325

Cronkit, Walter, 368

Cuba, 175

Cửa Lò, 393, 396

Cường Để, 29, 31, 32, 44

Cha Tam (nhà thờ), 110, 377

Chàm, 332

Chanson, 248, 429

Che Guevara, 175, 181, 224

chính phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam, 159, 200

Chợ Lớn, 105, 109, 110, 150, 271, 376

Chu Ân Lai, 166, 189, 229, 258

Chu Du, 146

Chu Đức, 293

Chu Văn An, 301, 305

Churchill, 39, 87, 131, 239, 242

D

D’Asta, Salvatore, 147, 154, 226

D’Orlandi, Giovanni, 147, 155, 227

Dahomey, 106, 133

Davidson, Philip, 184

Dân Xã Hòa Hảo, đảng, 429

De Borgia, Lucretia, 159

De Castries, 53

De Gaulle, Charles, 147, 217, 226, 276, 291

De Gorgey, Maria, 158

De Jaegher, Raymond J., 49, 72, 139

Devillers, Philippe, 32, 37, 40, 41, 52, 74

Diem-Must-Go, 93, 95, 157, 202, 364, 371

Diễn Châu, 279

Dominion, 40, 41

Donovan, William J., 45

Dooley, Thomas A., 59, 385, 388, 390, 409

Douglas, William O., 45, 49, 75, 195, 239, 338, 343

Duiker, William, 320

Dulles, Allen, 339

Dulles, Foster 74

Dulles, John Foster, 166

Duncanson, Dennis J., 224, 251, 252

Dunn, Mike, 376

Durbrow, Elbridge, 88, 345, 346, 351

Duy Dân, 135

Duy Nhân, 135

Duyên Anh, 206, 207

Dương Hiếu Nghĩa, 110

Dương Ngọc Lắm, 110

Dương Quỳnh Hoa, 90, 260

Dương Thu Hương, 206, 220

Dương Văn Đức, 257

Dương Văn Minh, 111

Dương Văn Minh, 62, 94, 110, 111, 119, 257, 295, 322, 377

Đà Lạt, 65, 86, 87, 89, 115, 124, 238, 293, 294, 370

Đà Nẵng, 238, 257, 259

Đại Hội Đoàn Kết, 52

Đài Loan, 171

Đại Phong, 21, 23

Đại Việt, 30, 35, 73, 92, 214, 337, 349, 426, 428

Đan Thọ, 304, 324

Đào Quốc Diệp, 211

Đạt Lai Lạt Ma, (Đức), 80, 250, 309

Đặng Hữu Chí, 40

Đặng Văn Nhâm, 206

Đặng Văn Quang, 211

Đặng Văn Sung, 283

Đặng Vũ Hiệp, 197

Đệ Nhất Cộng Hòa, ix, xv, xvi, 93, 149, 151, 160, 179, 188, 197, 213, 218, 267, 271, 272, 321, 379

Đệ Nhị Cộng Hòa, 141, 183, 206, 253, 254

Điện Biên, 53, 73, 166, 187, 302, 337, 382, 388

Điêu Thuyền, 146, 232

Đinh Hùng, 319, 320, 324

Đinh Nho Liêm, 197

Định Tường, 289, 372

Đinh Thạch Bích, 62, 248

Đinh Xuân Quảng, 36, 40

Đoàn Công Tác Đặc Biệt, 172

Đoàn Thêm, 44, 129, 208, 249, 250

Đỗ Cao Trí, 62, 104

Đỗ Mậu, 55, 91, 94, 97, 109, 127, 151, 168, 209, 222, 236, 247, 272, 311, 314

Đỗ Thọ, 109, 123, 206, 208

Độc Lập, Dinh, 90, 132

Đông Âu, 115, 168, 170, 213, 215

Đông Du, 32

Đông Dương, 31, 52, 53, 147, 192, 228, 241, 248, 291, 347, 400, 426

Đông Nam Á, 45, 157, 239, 337, 345, 357, 371, 431

Đồng Tháp Mười, 356, 427

Đổng Trác, 146, 232

Đức, 171

E

Eastman, Max, 186

École Des Chartes (trường), 156

Eisenhower, Dwight D, 63, 74, 75, 94, 131, 166, 202, 214, 223, 239, 244, 245, 339, 340, 341, 350, 351, 355, 386

Ély, Paul, 62, 63

Élysée, 40, 42, 128

Enigma, 50, 115, 142, 200

F

Fairbanks, 50

Fall, Bernard, 27, 33, 34, 42, 55, 59, 65, 70, 71, 127, 183, 224, 240, 339

Felt, 74, 107, 115, 116, 359, 373

Fishel, Wesley R., 44, 46, 338

Flott, Frederick, 375

Forestal, Michael, 95, 157, 202, 364, 366, 378

G

Gallup, 385

Gandhi, Mahatma, 131, 138, 381

Genève, 53, 54, 57, 60, 67, 71, 95, 166, 167, 242, 261, 298, 337, 338, 342, 355, 386, 391, 400, 419, 421, 427

Gia Long, dinh 90, 105, 107, 124, 130, 145, 150, 155, 160, 190, 227, 271, 276, 291, 374, 376, 380

Gia Long, vua, 70

Gia Nã Đại, 391

Gilpatric, Roswell, 366, 367

Goburdhun, 147, 155, 162, 227

Gorbachev, Michael, 169, 170

Gorbachev, Raisa, 169

Grant, J. A. C., 70

Gullion, Edmund S., 49

H

Hạ Long, 40, 128, 394, 399

Hà Mai Việt, 127

Hà Minh Trí, 78, 91, 129

Hà Nội, 25, 34, 57, 58, 92, 148, 149, 150, 154, 155, 158, 161, 162, 163, 164, 165, 171, 175, 176, 184, 185, 188, 193, 195, 196, 197, 198, 199, 212, 215, 219, 226, 227, 228, 230, 252, 253, 255, 258, 268, 276, 281, 282, 283, 301, 335, 342, 345, 354, 388, 389, 391, 400, 403, 404

Hà Tiên, 428

Hà Thượng Nhân, 206

Hà Vĩnh Phương, 133, 206

Hà Xuân Liêm, 23

Hải Dương, 411

Hải Phòng, 59, 184, 215, 299, 386, 389, 392, 393, 394, 395, 399, 401, 402, 403, 404, 406, 407, 410, 412, 413, 416, 417, 420

Halberstam, David, xiii, 94, 106, 202, 215, 238, 312, 320, 333, 357, 360, 362, 364, 369, 378, 381

Hammer, Ellen, 33, 99, 118, 119, 131, 132, 153, 154, 155, 156, 157, 160, 164, 167, 185, 223, 226, 227, 264, 379

Hàn Quốc, 413

Hàng Đào, 282

Harkins, Paul, 352, 353, 356, 359, 370, 372

Harriman, Averell, 93, 94, 95, 112, 157, 202, 256, 264, 351, 355, 356, 358, 361, 364, 365, 366, 367, 368, 378, 382

Harvard, 112, 194

Hayslip, Le Ly 124

Heath, Donald, 339

Helms, Richard, 366

Henderson, William, 73, 240

Hiền Lương, cầu, 147

Higgins, Marguerite, 25, 81, 103, 122, 134, 137, 159, 195, 223, 239, 294, 362, 379, 380

Hilsman, Roger, 93, 95, 101, 112, 115, 150, 157, 164, 176, 202, 264, 353, 364, 365, 367, 368, 378

Hòa Hảo, 52, 65, 66, 101, 388, 426, 427

Hòa Tường, 282

Hoa Thịnh Đốn, 63, 108, 113, 115, 120, 174, 336, 340, 341, 342, 367, 372, 373, 375, 376, 378

Hoài Bắc, 304

Hoàng Cơ Thụy, 88

Hoàng Đồng Tiếu, 151

Hoàng Hải Thủy, 159, 206, 319

Hoàng Lạc, 127, 312

Hoàng Minh Chính, 308

Hoàng Minh Giám, 281

Hoàng Ngọc Thành, 206, 312, 379

Hoàng Nguyên, 24, 97, 149, 207

Hoàng Quỳnh, 67

Hoàng Trọng Miên, 159

Hoàng Văn Đoàn, 49

Hoàng Xuân Hãn, 426

Hồ Anh, 272

Hồ Chí Minh, 23, 29, 33, 34, 35, 36, 53, 67, 68, 80, 83, 84, 94, 98, 106, 117, 120, 128, 130, 131, 137, 141, 145, 146, 147, 148, 150, 151, 155, 156, 161, 163, 166, 167, 168, 173, 174, 175, 179, 180, 181, 183, 184, 185, 186, 187, 188, 190, 191, 192, 193, 194, 195, 196, 197, 205, 216, 218, 219, 222, 224, 228, 229, 230, 231, 236, 237, 241, 242, 246, 255, 263, 266, 268, 269, 270, 273, 274, 275, 279, 281, 282, 283, 291, 310, 320, 329, 332, 334, 335, 336, 343, 349, 355, 358, 361, 381, 403, 424, 426

Hồ Đắc Điềm, 282

Hồ Hán Sơn, 64, 65

Hồ Hữu Tường, 426, 427

Hồ Sỹ Khuê, 35, 83, 84, 137, 219, 224, 236, 241, 242

Hồ Tấn Quyền, 107

Hồ Văn Ngà, 337

Hội Ái Hữu Người Việt Quốc Gia Hải Ngoại, 196, 205

Hồng Kông, 36, 293

Huế, 22, 23, 25, 26, 29, 31, 33, 39, 44, 46, 86, 98, 99, 102, 103, 123, 172, 208, 238, 279, 280, 295, 316, 364

Humphrey, Hubert, 88, 132

Hùng Lân, 304, 324

Huyết Hoa, 135

Huỳnh Hữu Nghĩa, 50, 287

Huỳnh Hữu Ủy, 23

Huỳnh Phú Sổ (Đức), 66

Huỳnh Tấn Phát, 90

Huỳnh Tịnh Của, 310

Huỳnh Thúc Kháng, 28, 183, 231

Huỳnh Văn Cao, 107, 208

Huỳnh Văn Lạc, 180

Hữu Loan, 324

I J

ICC, (Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến), 145, 147, 158, 185, 226, 391

Jackson, Andrew, 88

Jacobs, Seth, 214, 244, 340, 385

Jacquot, 69

Jefferson, Thomas, 87

Jimenez, Fernando Volio, 106

John Paul II, (Giáo Hoàng) 169, 170, 215

Johnson, Lyndon B., 87, 88, 131, 132, 176, 197, 202, 223, 242, 367, 378

Judd, Walter, 46

Jules Verne, tầu, 406

K

Karnow, Stanley, xv, 98, 103, 131, 132, 149, 152, 164, 176, 193, 203, 224, 238, 241, 254, 310, 316

Kennedy, John F., 46, 88, 111, 112, 114, 118, 131, 132, 150, 154, 166, 176, 177, 193, 194, 197, 201, 202, 203, 218, 256, 258, 262, 338, 350, 351, 352, 353, 355, 356, 365, 367, 368, 369, 370, 371, 372, 373, 382, 386

Kennedy, Robert F., 194

Ki-bút, (kibboutz), 93

Kiến An, 392

Kiến Hòa, 126, 344

Kim Đại Trọng, 225

Kim Liên, 279

Kissinger, Henry, 169, 258

Krulak, Victor, 368, 371

Khmer, 332

Khổng Giáo, 101, 122

Khổng Mạnh, 38

Khổng Minh, 146

Khrutshchev, Nikita, 77, 128, 229, 166, 189, 193, 342, 355, 381

L

L’Écho du Vietnam, 42

Labin, Suzanne, 68, 101, 102, 118, 124, 129, 139, 267

Lacy, William C. B., 45

Ladejinsky, Wolf, 68

Lai Văn Sang, 61, 245, 341

Lalouette, Roger, 147, 148, 155, 156, 160, 161, 162, 226, 227, 228

Lamont, Corliss, 203

Lansdale, Edward G., 62, 63, 248, 287, 339, 351, 352

Lâm Bưu, 293

Lâm Lễ Trinh, 145, 180, 255, 309

Lâm Thành Nguyên, 66, 427

Lê Châu Lộc, 66, 79, 91, 112, 115, 123, 129, 145, 180, 185, 249, 255, 309

Lê Chơn, 172

Lê Duẩn, 190, 230, 351

Lê Đình Quế, 211

Lê Đức Thọ, 184

Lê Giản, 35

Lê Hữu Từ, 67, 283

Lê Khắc Lý, 208

Lê Mạnh Thát, 23

Lê Minh Đạt, 172

Lê Phước Thưởng, 172

Lê Quang Tung, 107, 374, 381

Lê Quang Vinh, (Ba Cụt), 66

Lê Tú, 172

Lê Thị Hòa, 172

Lê Thiện Phước, 172

Lê Thương, 304

Lê Văn Đồng, 277

Lê Văn Hoạch, 40

Lê Văn Kim, 312, 365

Lê Văn Nghiêm, 111

Lê Văn Toán, 345

Lê Văn Tỵ, 61, 64, 65, 115, 208, 210, 247, 250

Lê Văn Thái, 135, 208

Lê Văn Viễn, 61

Lê-nin (Vladimir Ilich Lenin), 50, 51, 138, 187, 188, 189, 332, 381

Lê-ô XIII, 51

Liên Hiệp Quốc, 77, 94, 105, 106, 107, 128, 134, 166, 189, 229, 364

Liên Khu Tư, 282, 283, 284

Liên Phòng Đông Nam Á, 189

Liên Trường Võ Khoa, 87

Liên Xô, 77, 128, 153, 161, 163, 164, 168, 169, 170, 173, 187, 188, 192, 202, 213, 215, 229, 246, 269, 330, 332, 349, 355

Life, 73, 129, 238, 243

Lincoln, Abraham, 71, 109, 129, 131, 208

Lindholm, Richard W., 33, 59, 73

Little Sài Gòn Radio, 322

Lodge, Henry Cabot, 98, 100, 104, 105, 107, 108, 112, 119, 120, 150, 154, 156, 164, 165, 167, 185, 202, 203, 210, 227, 228, 252, 252, 291, 294, 311, 313, 314, 314, 316, 333, 365, 367, 368, 369, 370, 371, 372, 373, 374, 375, 376, 377, 378, 380, 382, 434,

Long An, 368

Long Nữ (Dragon Lady), 361

Lồ Ồ, suối, 167, 293

Luce, Henry, 242, 243

Lữ Bố, 146, 232

Lữ Phương, 260

Lực Lượng Đặc Biệt, 109, 130, 289, 292, 364, 374

Lương Khải Minh, 99, 124

Lương Trọng Tường, 66

Lưu Bị, 146

Lưu Doãn Huỳnh, 176, 197, 198, 199, 205, 211, 212

Lưu Huyền Đức, 146

Lưu Trung Khảo, 153

Lưu Văn Lợi, 197

Lý Đông A, 135

M

Mã Lai, 22, 45, 76, 93

Mã Tuyên, 109, 130, 271

Mác, (Marx, Karl), 27, 138, 168, 186, 219, 332

Mac-Arthur, Douglas, 75

Magsaysay, Ramon, 80, 131, 249, 267, 309

Mai Hữu Xuân, 40, 110, 111, 295, 322

Mai Thọ Truyền, 249, 309

Mai Văn Bột, 389, 402

Mai Văn Hàm, 411

Mai Văn Thinh, 398

Maneli, Mieczyslaw, 147, 154, 155, 156, 158, 159, 160, 161, 162, 163, 164, 167, 173, 181, 185, 226, 227, 228, 229

Mansfield, Mike, 46, 338

Mao Trạch Đông, 169, 175, 181, 186, 224, 283, 293, 332

Maritain, Jacques, 49, 134

Ma-rốc, 105, 133, 147, 275, 291

Mary Knoll (tu viện), 47

Maxim Gorky, (tầu), 169

Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, 35, 83, 84, 163, 171, 188, 195, 200, 219, 241, 349,

Mậu Thân, 92

McCargar, James, 195

McCone, John, 194, 202, 355, 366, 367, 368

McGarr, Lionel C., 351, 352

McNamara, Robert, 112, 150, 176, 197, 198, 199, 200, 201, 203, 204, 205, 209, 210, 211, 212, 310, 316, 350, 355, 366, 367, 369

Mecklin, John M., 73, 370

Mendenhall, Joseph, 368

Mendès-France, Pierre, 57

Michigan, 33, 44, 46, 59, 87

Miến Điện, 45, 239

Miller, Edward, 34, 35, 37, 49

Minh Mạng, 22

Minh Trị Thiên Hoàng, 138

Minh Võ, xvi, 42, 81, 123, 180, 191, 218, 308, 311, 315, 320, 323, 346, 358, 424, 463

Mollet, Guy, 429

Montréal, 47

Moscow, 164, 197

Mounier, Emmanuel, 49, 134

Moyar, Mark, 105, 106, 194, 196, 329, 330, 337, 340, 349, 368, 379, 381

Mozart, 86

Mông Cổ, 332

mục sư Chính, 388

Mười Hương, 172

Mỹ Tho, 239, 357

Mỹ Thuận, 107

N

Nam Dương, 30, 50

Nam Đàn, 279, 280

Nam Hàn, 171, 225

Nam Tư, 332, 355

NATO, 339

Navarre, 53

Năm Lửa, 66

Nehru, Pandit, 50

New Jersey, 47

New York Herald Tribune, 56, 148

New York Times, 169, 369

New York, 44, 47, 48, 56, 176, 195, 197, 203, 242, 346, 369

Newman, John M., 152, 239, 254

Ng. Thị Muôn, 146

Nghệ An, 273, 279, 292

Nghiêm Kế Tổ, 282

Nghiêm Xuân Thiện, 36, 40

Ngọc Bích, 304, 315, 322, 324

Ngô Đình Cẩn, 21, 29, 31, 32, 104, 122, 148, 172

Ngô Đình Khả, 21, 22, 23, 24, 25, 35

Ngô Đình Khôi, 21, 25, 30

Ngô Đình Lệ Thủy, 124

Ngô Đình Luyện, 21, 53, 189

Ngô Đình Nhu, xvi, 21, 48, 49, 50, 51, 52, 58, 62, 64, 65, 68, 71, 90, 92, 93, 95, 96, 104, 105, 108, 110, 115, 119, 122, 123, 124, 125, 130, 134, 135, 136, 141, 146, 147, 149, 150, 153, 154, 155, 156, 157, 157, 159, 160, 161, 162, 167, 173, 174, 176, 180, 185, 190, 193, 208, 217, 218, 222, 223, 225, 226, 227, 229, 230, 232, 248, 251, 251, 252, 253, 258, 264, 271, 272, 274, 275, 276, 277, 279, 281, 283, 284, 285, 286, 287, 288, 289, 290, 291, 293, 294, 296, 308, 352, 354, 364, 365, 367, 368, 369, 372, 380, 428

Ngô Đình Nhu, , 89, 95, 96, 123, 124, 125, 157, 158, 159, 164, 276, 277, 293, 353, 361, 364

Ngô Đình Thục, 21, 31, 43, 44, 45, 122, 124

Ngô Văn Đính, 126

Nguyễn Bảo Toàn, 140, 429

Nguyễn Bính, 324

Nguyễn Bình, 35

Nguyễn Cao Kỳ, 97, 98, 100, 209, 242, 252, 258, 272, 274, 311, 313, 314, 315, 380

Nguyễn Cơ Thạch, 197, 199

Nguyễn Cửu Đắc, 180

Nguyễn Chánh Thi, 88, 111, 209, 272, 274, 311

Nguyễn Duy Quang, 282

Nguyễn Đà, 172

Nguyễn Đắc Xuân, 280

Nguyễn Đình Chơn, 172

Nguyễn Đình Thuần, 113, 208, 250, 365

Nguyễn Giác Ngộ, 66, 429

Nguyễn Hải Thần, 174, 183, 231, 282

Nguyễn Hiền, 304, 324

Nguyễn Hữu Bài, 23, 25, 26, 205, 280

Nguyễn Hữu Có, 107, 289, 372, 374

Nguyễn Hữu Duệ, 108, 119, 130, 206, 256, 291, 312, 379

Nguyễn Hữu Thọ, 90

Nguyễn Kỳ Phong, 215

Nguyễn Khánh, 110, 174, 208, 229, 257, 274

Nguyễn Khắc Toàn, 170

Nguyễn Khoa Toàn, 40

Nguyễn Luật, 388

Nguyễn Lý Tưởng, 30

Nguyễn Mạnh Hà, 426

Nguyễn Ngọc Khôi, 107, 108, 256

Nguyễn Ngọc Linh, 48

Nguyễn Ngọc Phách, 23

Nguyễn Ngọc Sơn, 337

Nguyễn Ngọc Tấn, 379

Nguyễn Ngọc Thơ, 99, 208, 250, 295, 363

Nguyễn Phụng, 86

Nguyễn Phước Tộc, 28, 55, 209, 251, 316

Nguyễn Quốc Định, 57

Nguyên Sa, 152, 153, 206, 207, 254

Nguyễn Sinh Khiêm, 30

Nguyễn Sinh Sắc, 29, 273, 279, 280

Nguyễn Tất Đạt, 30

Nguyễn Tôn Hoàn, 35, 36, 73, 349, 427, 429

Nguyễn Tường Long, 36

Nguyễn Tường Tam, 36, 88, 129, 174, 183, 231

Nguyễn Thái Học, 283

Nguyễn Thành Cung, 208, 249, 250, 310

Nguyễn Thanh Giang, 308

Nguyễn Thành Phương, 64, 66, 429

Nguyễn Thế Nghiệp, 337

Nguyễn Thị Bình, 197

Nguyễn Thị Định, 344

Nguyễn Thị Tài, 26

Nguyễn Thị Thanh, 30

Nguyễn Triệu Hồng, 88, 90, 130

Nguyễn Trường Tộ, 310

Nguyễn Văn Cử, 91

Nguyễn Văn Châu, 136, 194, 195, 379

Nguyễn Văn Chức, 379

Nguyễn Văn Diệp, 86

Nguyễn Văn Hiếu, 90

Nguyễn Văn Hinh, 60, 65, 71, 245, 262, 302, 304, 341, 429

Nguyễn Văn Linh, 140, 171, 172, 190, 253

Nguyễn Văn Lục, 206, 207

Nguyễn Văn Lực, 91

Nguyễn Văn Minh, 24, 29, 97, 148, 149, 153, 164, 172, 210, 249, 317, 379

Nguyễn Văn Ngân, 149, 206

Nguyễn Văn Nhung, 110, 295

Nguyễn Văn Phú, 152, 254

Nguyễn Văn Quan, 119

Nguyễn Văn Sâm, 337

Nguyễn Văn Tâm, 60, 245

Nguyễn Văn Thiệu, 149, 211, 258, 266, 268, 293, 376

Nguyễn Văn Thuận (Hồng Y), 21, 148, 164

Nguyễn Văn Vỹ, 64, 65, 71, 245, 247, 262

Nguyễn Văn Xuân, 40

Nguyễn Xuân Nghĩa, 130, 206

Nguyễn Xuân Nghiên, 152, 254

Nguyễn Xuân Vinh, 91, 206

Nhân Chủ, 135

Nhật Bản, 30

Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam), 88, 89, 129

Nhị Lang, 64, 65, 247

Nho Giáo, 22, 122

Nixon, Richard M., 98, 118, 131, 133, 140, 169, 183, 186, 203, 204, 205, 209, 214, 215, 216, 223, 241, 251, 252, 313, 315, 361, 379, 380

Nobel Hòa Bình, 88, 225

Nolting, Frederick, 80, 81, 87, 88, 114, 117, 154, 174, 181, 184, 187, 200, 203, 223, 238, 259, 263, 294, 352, 353, 355, 356, 364, 367

Norodom, 38, 39, 261, 324

O

O’Daniel, 388, 402

Orendain, Juan C., 70

Orthodox, 329

P

Pakistan, 40, 42

Paramount, 36, 38

Paris, 25, 32, 50, 52, 55, 81, 136, 148, 183, 187, 195, 196, 222, 291, 294, 342, 346, 427, 432

Patti, Archimedes, 336

Paul Mus, 336

Paulding, Gouverneur, 46

Phạm Công Tắc, Đức, 66, 427

Phạm Duy, 304, 315, 322, 324

Phạm Đình Chương, 304

Phạm Hùng, 149, 217, 225, 226, 275, 276, 289

Phạm Kim Vinh, 121, 133, 206, 312, 379

Phạm Ngọc Thảo, 149, 257, 362

Phạm Phú Quốc, 91, 129

Phạm Thị Thân, 21

Phạm Thu Đường, 208, 284, 287

Phạm Văn Bính, 36, 38, 126

Phạm Văn Cảm, 87

Phạm Văn Đồng, 156, 161, 163, 167, 173, 174, 181, 228, 281, 427

Phạm Văn Liễu, 209, 312

Phạm Văn Lưu, 307, 379

Phạm Văn Phú, 109, 292

Phạm Văn Sơn, 23

Phạm Xuân Ẩn, 184, 362

Phạm Xuân Ninh, 207, 208

Phạm Xuân Thái, 66

Phan Bội Châu, 23, 28, 29, 30, 32, 131, 192, 206

Phan Hòa Hiệp, 211

Phan Huy Quát, 63, 214, 244, 257, 265, 283, 340

Phan Huy Xương, 282

Phan Kế Toại, 231

Phan Khắc Sửu, 89, 257

Phan Khôi, 324

Phan Mỹ, 281

Phan Quang Đán, 36, 88, 130, 282, 340, 349, 429

Phan Thị Chanh, 172

Phan Thiết, 26

Phan Văn Giáo, 40

Phát Diệm, 67, 283, 400, 401, 402, 403, 404, 405

Phật Đản, 97, 249, 251

Phật Giáo, xiii, xiv, xv, xvi, 23, 83, 89, 94, 97, 98, 99, 100, 101, 102, 103, 104, 105, 106, 127, 133, 154, 162, 165, 167, 171, 207, 219, 225, 226, 232, 236, 241, 249, 250, 251, 252, 256, 294, 295, 305, 309, 310, 313, 314, 315, 317, 334, 361, 362, 363, 365, 368, 380, 409

Phi Luật Tân, 45, 70, 76, 93, 375, 377, 417

Phillips, Rufus, 93, 312, 354, 360, 368

Phnom-Penh, 117, 400

Phúc Nhạc, 283

Phùng Quán, 324

Phước Thành, 352

Pike, Douglas, 154, 343

Pinay, Antoine, 147, 148, 217, 218, 226, 276, 291

Pio XII, 45

Q R

Quách Tòng Đức, 97, 123, 145, 180, 208, 249, 250, 255, 309, 310

Quantino, 329

Quảng Bình, 21, 23

Quảng Nam, 30

Quảng Trị, 428

Quân Chủ Lập Hiến, 31

Querville, đô đốc, 402

Quốc Học, 22, 25

Quốc Tế Cộng Sản, 90, 173, 186, 187, 188, 190, 219, 266, 269, 332, 335

Quốc Tế III, 192, 266

Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến, ủy hội, 145, 147, 154, 226, 255, 400, 405

Quốc Tử Giám, 280

Quý Mão, 145, 180, 191, 232, 255, 275

Reagan, Ronald, 169, 215

Richardson, John, 174, 229, 369

Rowny, Edward, 361

Rusk, Dean, 150, 350, 366, 367

S

Sabin, đô đốc, 388, 402

Sài Gòn, xiii, 30, 31, 32, 36, 40, 44, 51, 52, 60, 62, 63, 65, 79, 81, 86, 87, 89, 100, 101, 103, 105, 107, 109, 112, 113, 118, 120, 124, 147, 148, 154, 155, 158, 160, 161, 162, 163, 164, 168, 174, 186, 196, 219, 226, 228, 229, 230, 238, 239, 242, 243, 244, 245, 249, 250, 253, 257, 267, 283, 284, 291, 292, 301, 303, 307, 317, 319, 334, 339, 341, 342, 349, 353, 354, 357, 365, 367, 368, 369, 370, 373, 374, 378, 388, 399, 400, 402, 404, 406, 408, 409, 419, 424, 426, 427

Savani, Thiếu Tá, 62, 248

Schlesinger, Arthur M. 111, 176, 194

SEATO, 189, 190, 337

Seattle, 293

Seno, 429

Shaplen, Robert, 27

Sheehan, Neil, xiii, xv, 94, 94, 140, 171, 190, 202, 238, 238, 239, 253, 254, 272, 312, 333, 357, 358, 358, 362, 378,

Soekarno, Tổng Thống Nam Dương, 30

Solzhenitsyn, Alexander, 186

Sơn Tùng, 280

Spellman, Francis J., 44, 48, 86, 338

Stalin, Joseph, 106, 229, 283, 381

Strausz-Hupé, Robert, 186

Sully, Francois, 353, 357

Sulzberger, Arthur, 369

T

Tạ Chí Diệp, 140

Tam Giác, 114, 153

Tam Túc, 114, 153, 164, 167

Tánh Linh, 289, 291

Taylor, Maxwell, 71, 112, 114, 150, 197, 204, 223, 263, 294, 352, 367, 369, 379, 380

Tâm Tâm Xã, 192

Tân Gia Ba, 45, 239

Tân Sự, tông huấn, 51

Tây Ban Nha, 70

Tây Ninh, 62, 66, 78, 292, 344

Thạch Xuân Kỳ, 165

Thái Hoàng Minh, 62

Thái Lan, 76, 239, 355, 428

Thái Lăng Nghiêm, 135

Thái Thủy, 33

Thanh Chương, 280

Thanh Hóa, 409

Thanh Nam, 322, 324

Thanh Niên Cộng Hòa, 109, 147, 180, 208, 271, 284, 285, 289, 363

Thanh Nghị, 159

Thành Thái, 22, 23, 273, 280

Thẩm Oánh, 324

Thân Thị Nhân Đức, 379

Thế Chiến II, 46, 168, 182

Thế Kỷ 21, 23, 28

Thích Hải Ấn, 23

Thích Huyền Quang, 103

Thích Minh Châu, 295

Thích Quảng Độ, 103

Thích Quảng Đức, 102, 103

Thích Thiện Minh, 99, 102

Thích Trí Quang, 96, 97, 99, 100, 102, 103, 104, 251, 252, 253, 258, 295, 313, 314, 315, 316, 361, 362, 380

Thích Trí Thủ, 295

Thịnh Mỹ, 279

Thompson, 93, 133, 139, 251, 267, 354, 360

Thompson, Robert, Sir, 367

Thông Luận, 308

Thông Tấn Xã Hà Nội, 392

Thủ Đức, 87

Thụy Sĩ, 53, 169

Thừa Thiên, 172, 256, 429

Thực Dân, 22, 27, 31, 60, 67, 139

Thượng Hải, 169, 258

Tiếng Dân, 28

Time, tạp chí, 73, 81, 91, 195

Tin Lành, 101, 388

Tito, Josip Broz, 106, 150, 176, 332, 349, 355, 381

Tokyo, 44

Tourmaire, Hélène, 320

Tout ou rien, 37, 77

Tôn Quyền, 146

Tôn Thất Cảnh, 28

Tôn Thất Đính, 149, 209, 211, 250, 274, 322, 372

Tôn Thất Hân, 24, 205

Tôn Thất Sa, 22

Tôn Thất Tuệ, 47

Tôn Thất Thiện, 81, 117, 160, 195, 206, 208, 272, 277, 312

Tôn Thất Thiết, 277

Tôn Thất Trạch, 282

Trà Bồng, 354

Trại Chùa, 386, 388, 389, 390, 407, 408, 409, 412, 416

Trần Bích Lan, 152, 206, 207, 254

Trần Bửu Kiếm, 90

Trần Canh, 53

Trần Chánh Thành, 282, 284

Trần Chung Ngọc, xiv

Trần Dân Tiên, 106, 381

Trần Điền, 91

Trần Đình Lan, 88

Trần Độ, 160

Trần Hữu Dương, 282

Trần Kim Tuyến, 99, 124, 316

Trần Lê Quang, 130

Trần Lệ Xuân, 71, 159

Trần Phong Vũ, 149, 206

Trần Quang Thuận, 103

Trần Quốc Bửu, 49, 287

Trần Sử, 208, 249, 250, 310

Trần Thiện Khiêm, 104, 109, 210, 322, 373

Trần Trọng Kim, 32, 33, 192, 281

Trần Trung Dung, 36, 117

Trần Văn Chương, 68, 105

Trần Văn Đỗ, 37, 57, 63, 89, 189, 244

Trần Văn Đôn, 80, 104, 107, 108, 110, 158, 182, 208, 209, 210, 237, 274, 275, 311, 363, 365, 370, 373, 380

Trần Văn Hương, 89, 257

Trần Văn Hữu, 40, 60

Trần Văn Kiệm, 48, 67

Trần Văn Lý, 37, 89

Trần Văn Soái, 66

Trần Văn Tuyên, 89

Trần Văn Văn, 89

Triều Tiên, 166, 342

Trịnh Đình Thảo, 90

Trình Minh Thế, 62, 64, 207, 247, 248, 287

Trueheart, William, 120, 174, 357, 362

Truman, Harry S., 45, 46, 48

Trung Cộng, 49, 153, 161, 164, 166, 168, 173, 187, 189, 190, 215, 229, 230, 258, 259, 269, 332, 335, 342, 349, 355

Trung Hoa Dân Quốc, 72, 76, 89, 169, 267, 336

Trung Hoa Lục Địa, 169

Trung Quốc, 35, 72, 169, 189, 229, 330

Trung Tá Bường, 275

Trương Công Cừu, 154, 185, 226, 227

Trương Đình Dzu, 284

Trương Đình Thi, 337

Trương Như Tảng, 90, 200, 260

Trương Phú Thứ, 272, 293

Trương Tử Anh, 337

Trương Tử Phòng, 121, 133, 206, 379

Trương Vĩnh Ký, 310

Trương Vĩnh Lễ, 292

Tùng Phong, 277

Tuy Hòa, 34

Tuyên Quang, 34

Tự Đức, 22, 23, 26

Tức Mặc Hầu, 26

Tưởng Giới Thạch, 267, 332

U Ư

Úc, 75, 76, 175, 180, 181, 195, 224, 239, 307, 358, 360

Uyên Thao, 320

Ưng Ngọc Kỷ, 90

V

Vann, John Paul, 152, 238, 254, 333, 358, 360

Vanuxem, 267

Vatican, xiii, 45, 147, 154, 162, 169, 170, 226, 268

Văn Cao, 315, 323

Văn Phụng, 304

Văn Tiến Dũng, 140, 171, 172, 190, 253, 254

Văn Thành Cao, 66

Văn Thiệt, 245, 304

Vi Quốc Thanh, 53

vĩ tuyến 38, 166

Vientiane, 400

Việt Bắc, 224

Việt Cách, 231, 282

Việt Cộng, 58, 78, 92, 96, 99, 104, 111, 126, 176, 184, 195, 197, 217, 222, 224, 253, 259, 262, 283, 336, 343, 344, 345, 351, 355, 357, 359, 368, 387, 425

Việt Minh, 23, 34, 35, 41, 42, 43, 57, 60, 62, 67, 120, 175, 182, 192, 226, 240, 241, 279, 281, 282, 283, 284, 298, 299, 304, 307, 323, 336, 337, 338, 349, 386, 389, 390, 391, 393, 397, 398, 402, 403, 407, 408, 410, 411, 414, 415, 419, 426, 428, 430

Việt Nam Cách Mệnh Đồng Chí Hội, 192

Việt Nam Cộng Hòa, 26, 56, 72, 77, 113, 115, 116, 145, 167, 171, 184, 189, 196, 213, 229, 255, 258, 341, 343, 351, 359, 382

Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, 77, 145, 189, 255, 335

Việt Nam Độc Lập Đồng Minh hội, 192

Việt Nam Quốc Dân Đảng, 91, 172, 183, 283

Việt Quốc, 231, 271, 307, 426

Vĩnh Nghiêm, 249

Vĩnh Phúc, 110, 126, 127, 206, 312, 379

Võ Bá Hạp, 29

Võ Bị Quốc Gia, 87

Võ Nguyên Giáp, 29, 53, 166, 197, 281, 337

Võ Như Nguyện, 29, 30, 32, 151, 168, 222

Võ Văn Giáp, 29

Võ Văn Hải, 208, 249, 250, 310, 365

Vũ Đình Huỳnh, 23, 35

Vũ Hồng Khanh, 174, 183, 231

Vũ Mộng Long. See Duyên Anh

Vũ Ngọc Nhạ, 184

Vũ Quang Ninh, 322

Vũ Thư Hiên, 23, 35

Vũ Văn An, 126

Vũ Văn Mẫu, 105, 208, 250

Vũng Tầu, 238, 257

Vương Doãn, 146, 232

Vương Dương Minh, 138

Vương Đình Quang, 28

Vương Thăng, 139, 267

Vương Văn Đông, 88, 90, 209, 312

Vy Khanh, Nguyễn, 136, 196

W

Walesa, Lech, 170

Warner, Denis, 175, 181, 224

Washington, George, 157, 164, 242

Wilson, Woodrow,, 88

Winn, Walter, 388

Winters, Francis X., 71, 145, 150, 174, 379

WTO, 388

X Y Z

Xá Lợi (chùa), 103, 249, 289, 313, 363, 364

Xuân Con Mèo, xvii, 107, 179, 216, 340

Xuân Thủy, 161, 163, 228

Xuân Vũ, 359

Ý, 155

Young, Marilyn, 115, 150, 176, 193, 197, 212, 258, 264

Zablocki, Clement J., 371

 

 

 

 

 

Tác phẩm biên khảo của Minh Võ

1. Sách Lược Xâm Lăng Của Cộng Sản (220 trang) 

            Tác Giả xuất bản năm 1963 tại Saigon

                tái bản năm 1970 tại Saigon

                tái bản lần thứ 2 tại Nam Cali năm 2007, giá 15 Mỹ Kim

            “Cuốn sách thật hay. Một trong những cuốn hay nhất, nếu không phải là cuốn hay nhất mà tôi được
đọc trong 15 năm, kể cả sách bằng Pháp văn…”
(Cố văn sĩ Nguyễn Mạnh Côn, Nguyệt San Tin Sách
của Trung tâmVăn Bút Việt Nam số tháng 6-1963)

2. Ngô Đình Diệm, Lời Khen Tiếng Chê (380 trang) 

                Thông Vũ xuất bản tại Nam Cali tháng 5 năm 1998

                Tái bản tháng 10 năm1998

                Tái bản lần thứ hai năm 2004, giá 16 Mỹ Kim

            “Một công trình khảo cứu có giá trị,
đáp ứng đúng những tiêu chuẩn sưu khảo đứng đắn và lương thiện thuộc loại khả kính…”
(Giáo Sư Tôn Thất Thiện).

3. Phản Tỉnh Phản Kháng Thực Hay Hư (650 trang) 

                Thông Vũ xuất bản tại Nam Cali năm 1999

                Tái bản năm 2004, giá 28 Mỹ Kim

“Tác phẩm như một ngọn sóng trào lên giữa biển lặng.” (Nhà văn Xuân Vũ)

4. Tâm Sự Nước Non, Ai Giết Hồ Chí Minh (350 trang) 

                Tủ Sách Tiếng Quê Hương xuất bản tại Virginia năm 2002. (Hết)

            “Những nhận định xác đáng, độc đáo đầy rẫy trong từng trang sách, chẳng khác gì những tia sáng thình lình soi tỏ mọi ngóc ngách tăm tối, bí ẩn của lịch sử.”
(Thi sĩ Nguyễn Chí Thiện)

5. Hồ Chí Minh, nhận định tổng hợp (790 trang khổ lớn) 

                Tủ Sách Tiếng Quê Hương xuất bản tại Virginia năm 2003

                Tái bản năm 2006, Giá 32 Mỹ Kim

“Khi viết tác phẩm đặc sắc này,
Minh Võ đã tạo được một thành tích cực lớn…
Đọc Minh Võ không ai còn có thể hồ nghi gì nữa.”
(Giáo Sư Nguyễn Ngọc Phách,
tác giả Việt Sử Đương Đại qua 200 câu vè bất hủ.)

6. Cầu Nguyện Và Nước Trời (230 trang) 

                Tác giả xuất bản năm 2007 tại Nam Cali, Giá 14 Mỹ Kim.

7. Ngô Đình Diệm và Chính Nghĩa Dân Tộc (466 trang)

                Hồng Đức xuất bản tại Nam Cali, năm 2008. Giá 20 Mỹ Kim.

 

        

   


 

 

 

 

 

NGÔ ĐÌNH DIỆM

CHÍNH NGHĨA DÂN TỘC

 

Minh Võ

 

 

 

í Liên lạc với tác giả qua:

    điện thoại: (619) 793-6639

    điện thư: minhvo1927@sbcglobal.net

 

í Liên lạc với tòa soạn Diễn Đàn Giáo Dân xin:

    Gửi về địa chỉ:  

                14924 Dillow 

          Westminster, CA 92683 

    Điện thoại: (714) 894-5826 

    hoặc gửi điện thư: toasoanddgd@diendangiaodan.com

 

 

ấn phí 20 Mỹ Kim


 

 


[1] Vì không muốn một bài tưởng niệm quá dài vì những dẫn chứng nên chúng tôi đã đưa phần dẫn chứng xuống chú thích. Những chú thích này sẽ cho thấy tất cả những gì nêu lên trong bài tưởng niệm không phải là do chủ quan của người viết mà là những sự thực khách quan có cơ sở hoàn toàn.

[2] Ngày 26-10-1956 là ngày Quốc Khánh, ngày khai sinh chế độ đệ nhất Cộng Hòa, mà người khai sáng chính là Tổng Thống Ngô Đình Diệm, được coi như ngày Vinh Quang nhất của đời ông. Ngày 2-11-1963, hơn 7 năm sau là ngày Tổng Thống bị tử nạn. Nhóm tướng lãnh đảo chính đã hạ lệnh giết ông, rồi vu cáo là ông tự sát. Cuộc đảo chính bắt đầu vào ngày hôm trước, 1-11-63.

[3] Thanh bình, thịnh vượng: Sau khi dẹp tan bọn phiến loạn Bình Xuyên, giải tán các toán vũ trang của các giáo phái và thống nhất quân đội, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã dồn nỗ lực vào việc đem lại an ninh cho đồng bào. Chín năm dưới thời ông là những năm thanh bình, phồn thịnh nhất mà ngay những người cực lực chỉ trích ông cũng phải ghi lại trong tác phẩm của họ. Chỉ xin trích dẫn một vài đoạn để chứng minh.

         – Ông Hồ Sỹ Khuê người chê ông Diệm độc tài, đàn áp Phật Giáo đã viết trong cuốn Hồ Chí Minh, Ngô Đình Diệm và Mặt Trần Giải Phóng Miền Nam (NXB Văn Nghệ, Nam Cali, 1992, trang 369-370): (Xin xem chương 1, phần I, trước chú thích (58).)

         Vậy mà, cũng năm 1992 có một cuốn sách khác được xuất bản cũng kịch liệt đả kích ông Diệm. Nhưng tác giả, vì thành kiến hay ghen ghét, đã chẳng những phủ nhận hoàn toàn những thành quả về xã hội dân sinh mà ông Diệm đã thực hiện cho nhân dân, họ còn bịa ra rằng, trong thời ông Diệm, nhân dân miền Nam thực sự sống trong cảnh địa ngục trần gian (Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi, trang 298). Tuy cuốn sách ghi tác giả là Hoành Linh (Đỗ Mậu), nhưng ai cũng biết tác giả thực sự là một nhóm người thù ghét ông Diệm, và ghen ghét tập thể người Công Giáo. Họ đã cố tình bịt mắt trước những thực tế không thể phủ nhận, mà chính những người không ưa ông Diệm khác đã phải công nhận.

         Đã trưng dẫn ông Hồ Sỹ Khuê, một cây viết chỉ trích kịch liệt ông Diệm, thiết tưởng cũng nên trích vài hàng của một tướng trong số hai tướng chủ chốt của cuộc đảo chính 1-11-63, là Trần Văn Đôn.

         – Tướng Trần Văn Đôn (1917-1997) là người miền Nam, sinh tại Pháp. Trong cuốn Our Endless War (Cuộc chiến bất tận của chúng tôi, Presido Press 1987), ông cho biết cảm tưởng và nhận xét của mình về ngày quốc khánh 26 tháng 10, năm 1956:

         “Đây là những lúc hồ hởi, hân hoan thực sự cho dân Việt Nam chúng tôi. Lần đầu tiên chúng tôi được thấy một lãnh tụ thực sự năng động và được dân mến chuộng. Vào thời gian đó tất cả chúng tôi đứng đàng sau ông Diệm: quân nhân, công chức, và nông dân miệt quê trong các làng xã. Sự ủng hộ này hoàn toàn đến nỗi trong cuộc bầu cử ông đã thắng lớn và ngày 26 tháng 10 năm 1956 nền đệ nhất Cộng Hòa Việt Nam được tuyên bố thành lập với ông Diệm làm tổng thống, đồng thời một hiến pháp được ban hành và lập tức 52 nước đã công nhận Cộng Hòa Việt Nam.” (SĐD tr. 62)

         Và ở một đoạn khác:

         “Chương trình Ấp Chiến Lược (thực ra là các chương trình dinh điền và khu trù mật, vì đến 1962 mới có quốc sách Ấp Chiến Lược. MV) nhằm bình định thôn quê, và đấu tranh chống tham nhũng, cờ bạc, nghiện hút và mãi dâm là bước đầu được lòng dân mà Tổng Thống Diệm đã làm, khi chế độ của ông mới thành lập.

         “Tôi đã có thể thấy qua nhiều cuộc nói chuyện với dân chúng thuộc mọi giai tầng xã hội là những hành động ban đầu của ông Diệm rất được lòng dân. Trong quân đội mọi cấp đều phấn khởi trước tinh thần thống nhất, sau khi dẹp xong các phe phái, và chinh phục được các thành viên thuộc các phái đó đứng vào hàng ngũ chúng tôi.

         “Các cuộc kinh lý khắp vùng thôn quê của ông Diệm khiến dân rất thương mến ông. Tại hai tỉnh Bình Định và Quảng Ngãi, trước kia từng là cứ điểm của CS, dân làng đã nói với tôi: “Trong 10 năm dưới quyền ông Hồ Chí Minh, ông ta chưa một lần nào đến thăm chúng tôi. Nhưng mới chỉ 10 ngày (sau khi được giải phóng), ông Ngô Đình Diệm đã tới thăm và nghe chúng tôi kể những nỗi khó khăn của chúng tôi.” Dân chúng ở cả thành thị lẫn xóm làng đều biết về ông Diệm và lấy làm thích thú những gì họ được xem thấy.”

         Những lời kể trên hoàn toàn trái ngược với những gì mà vài nhà báo Mỹ, trẻ măng, như David Halberstam, Neil Sheehan, hoặc như Stanley Karnow, vì sẵn ác cảm, hay vì nhận xét hời hợt, đã chê ông Diệm không chịu đi ra ngoài để tiếp xúc với dân, mà chỉ khư khư ngồi trong dinh nghe bọn “nịnh thần” báo cáo.

         Tuy trong 2 năm cuối (1962, 1963), cộng quân đã mở một vài cuộc tấn công nhỏ, như ở Ấp Bắc, và cán bộ du kích đã có thể xâm nhập, khủng bố các viên chức chính phủ tại thôn ấp. Nhưng tình hình an ninh vẫn còn tốt đẹp. Các trục lộ giao thống chính vẫn tuyệt đối an toàn. Sau đây là những gì các giới chức Mỹ ở Sài Gòn lúc ấy đã viết về vấn đền này.

         – Đại sứ Frederick Nolting, trong hồi ký From Trust to Tragedy (Praeger, NY, 1988, trang 56) viết: “By the end of 1962 my family and I could drive to Cap Saint Jacques (Vùng Tầu) or Da Lạt without armed escort.” (Khoảng cuối năm 1962, tôi và gia đình tôi đã có thể lái xe đi Vũng Tầu hay Đà Lạt mà không cần hộ thống vũ trang.)

         William E. Colby, Giám đốc Trung Ương Tình Báo Mỹ (CIA) đã viết trong tác phẩm Honorable Men, My Life In The CIA (NXB Simon & Schuster, NY, 1978) rằng khi còn là trưởng nhiệm sở CIA ở Sài Gòn, cũng khoảng thời gian 1962, vợ con ông (bà Barbara Colby, và cô con gái tên Catherine) đã có thể đi qua đèo Hải Vân giữa Đà Nẵng và Huế, chỉ với một sĩ quan phụ trách nhiệm sở ở phía Bắc VNCH. (SĐD trang 179).

         Chính nhà báo trẻ Neil Sheehan trong cuốn A bright shining lie cũng đã thuật lại trường hợp Trung Tá Vann, cố vấn sư đoàn 7 đã một mình lái xe từ Sài Gòn đi Mỹ Tho vào giữa năm 1962. Tuy nhiên vì không muốn công khai nhìn nhận một sự thực là ngay vào năm cuối thời đệ nhất Cộng Hòa tình trạng an ninh cũng rất bảo đảm, nên Neil Sheehan đã vụng về giải thích rằng sở dĩ CS để ông đi bình an là vì họ muốn gây cảm tình với người Mỹ(!). Xin xem SĐD, NXB Random, NY, 1988, trang 46).

[4] Về những lời khen xin chỉ kể một vài nhân vật nổi bật:

         – William O. Douglas thẩm phán tối cao pháp viện Mỹ, tác giả cuốn sách nổi tiếng về các nước vùng Đông Nam Á nhan đề North From Malaya, nghiên cứu về các nước Miến Điện, Tân Gia Ba, Thái Lan, Ai Lao và Việt Nam đã từng gặp Ngô Đình Diệm mùa hè năm 1952, trong một chuyến chu du khắp vùng Á châu. Ông đã ca ngợi ông Diệm là anh hùng, và được nhiều tác giả sau này trong đó có nữ ký giả Marguerite Higgins nhắc lại.

         – Tổng Thống Dwight D. Eisenhower (1890-1969), theo sử gia John M. Newman, đã gọi Ngô Đình Diệm là con người của phép lạ (hay con người thần kỳ, A Miracle Man), Nhiều nhà báo Mỹ Úc, kể cả thiên Cộng, cũng coi việc Thủ Tướng Ngô Đình Diệm dẹp tan loạn Bình Xuyên và thống nhất quân đội các giáo phái vào một mối là một phép lạ chính trị, hiếm thấy trong lịch sử. Xin chỉ dẫn chứng tờ báo uy tín bậc nhất của Mỹ là tờ Foreign Affairs. Tác giả William Henderson nhận xét, trước khi Diệm lên cầm quyền Nam Việt Nam xem ra chắc chắn sẽ rơi xuống vực thẳm của nội chiến đẫm máu, rồi sụp đổ. Nhưng chỉ 2 năm sau… một phép lạ chính trị đã xảy ra.

         Nếu coi việc nói tiên tri là một phép lạ, thì rất nhiều người, kể cả những người chỉ trích ông cũng đã ca ngợi tài tiên tri của ông Diệm. Tưởng chỉ cần nhắc lại ở đây một vài tên tuổi nổi bật:

         – Bernard Fall (1926-1967), trong cuốn The Two Vietnams, nxb Frederick and Praeger, USA, 1967, trang 241-242, đã trưng dẫn một báo cáo chính trị của người Pháp viết năm 1948 để chứng tỏ một viễn kiến chính trị vô cùng sâu sắc của ông Diệm, như một nhà tiên tri:

         (Về lý do đích thực ông Diệm từ chối lời Quốc Trưởng Bảo Đại mời ông giữ chức thủ tướng vào tháng 5 năm 1949, sau khi Quốc Trưởng đã ký với Tổng Thống Pháp hiệp ước Elyssée, ngày 8-3-1949, trao độc lập cho Việt Nam):

         “Thực ra ông Diệm nghĩ rằng những nhượng bộ của Pháp chưa sâu rộng đủ, để ông dấn thân vào thực hiện. Vẫn trên căn bản “Tất cả hoặc không có gì” (tout ou rien, all or nothing), ông ta lại thôi ủng hộ Bảo Đại và lập tại Nam và Trung Việt một chính đảng nhỏ mang cái tên nói lên chương trình hành động “Phong trào quốc gia quá khích (?) Phong trào kêu gọi kháng chiến chống cả Pháp lẫn Việt Minh, một cố gắng vô vọng vào năm 1949, nhưng như một báo cáo chính trị của Pháp (năm 1948 MV) đã nói rõ:

         “Ông Diệm nhắm tổ chức lại và tăng cường lực lượng Công Giáo để đạt được sự đoàn kết thực sự và nền độc lập của Việt Nam. Ngay sau khi đã đủ mạnh ông ta sẽ bắt tay vào việc giao tế với các ngoại cường, nhất là Mỹ, và sẽ xin họ giúp về kinh tế, ngoại giao.

         “Còn đối với chúng ta (nước Pháp) thái độ của ông ta là thân hữu vào lúc này, vì nhà cầm quyền Pháp hãy còn có ích cho ông ta. Quan điểm của Diệm là chỉ mong Mỹ can thiệp khi nào đã rõ ràng là Pháp trở nên bất lực trong việc giải quyết chiến cuộc Đông Dương.”

         “Báo cáo đó, 6 năm sau chứng tỏ hoàn toàn là một lời tiên tri. Nhưng vào năm 1948, chẳng ai đếm xỉa đến.” (That report was to prove fully prophetic six years later, but, in 1948, it was ignored.”(SĐD tr. 242)

         – Stanley Karnow (1926…), nhà báo trở thành sử gia đã viết trong cuốn Vietnam a history nxb Viking Pinguin, 1991 (3rd Edition) trang 231-232): “Thâu tóm kinh nghiệm, ông Diệm đã đưa ra một nhận định tiên tri vào lúc ấy: “Những người CS sẽ đánh bại chúng ta. Không phải họ mạnh. Mà vì chúng ta yếu. Họ sẽ thắng vì chúng ta bỏ cuộc.”

         Nhân câu trên của Karnow, tưởng cũng nên nhắc lại chính lời của Tổng Thống Diệm đã nói với nhiều người (cũng giống như Tổng Thống Nixon sau này), rằng phía người quốc gia sẽ thua vì báo chí (phản chiến).

         – Ông Hồ Sỹ Khuê, người cực lực chỉ trích ông Diệm độc tài và kỳ thị Phật Giáo, cũng ít nhất hai lần khen ông Diệm tiên liệu tình hình chính trị như nhà tiên tri, trong cuốn sách đồ sộ của ông, nhan đề Hồ Chí Minh, Ngô Đình Diệm và Mặt trận Giải Phóng Miền Nam. Trang 164 ông viết:

         “Ông Diệm bảo tôi: … Thành ra nguy cơ không phải là óc ly khai của người Nam Kỳ. Nguy cơ là Cộng Sản. Pháp là vấn đề giai đoạn, cộng sản mới thực là vấn đề tâm huyết và dài hạn. Pháp thắng hay bại trong cuộc chiến chống Việt Minh vẫn phải đi đến chỗ công nhận Việt Nam Độc Lập. Điều quan trọng là buộc họ trả chủ quyền trong tay chúng ta (trong tay ông Diệm). Lần khác ông thêm: “Cùng kỳ lý, nếu Pháp không thắng nổi, ta có thể dùng Nam Kỳ làm cứ điểm huy động quần chúng lục tỉnh để tranh thủ với cộng sản. Giữ được Nam Kỳ là giữ được nước.” Tôi suy nghĩ nhiều về điều ông Diệm nói đây, và đi đến kết luận: Trong tư tưởng thầm kín của ông, người Nam Kỳ ly khai, người Nam Kỳ thống nhất, không quan trọng bằng việc người Nam Kỳ có chịu chống cộng với ông không. Tinh thần ly khai của người Nam Kỳ có chỗ ông Diệm dùng được để tranh thủ với ông Hồ. Lời trên của ông Diệm tôi xem như một lời tiên tri. Sáu năm sau đó hiệp định Genève đã đưa ông vào hoàn cảnh Nam Bắc phân tranh mới, đúng như ông đã có vẻ tiên liệu sẵn.”

         Hai chục trang sau, trang 184, ông Hồ Sỹ Khuê lại khen ông Diệm tiên tri lần nữa:

         “Ông Diệm quả đã tiên tri là Hoa Kỳ sẽ can thiệp vào Việt Nam”. 

         – Tổng Thống Lyndon Baine Johnson (1908-1973), khi còn là phó tổng thống, trong một dạ yến tại Sài Gòn, năm 1961, đã ca tụng ông Diệm là Churchill của thập kỷ tại Á Châu. Ai cũng biết Thủ Tướng Anh Winston Churchill (…) được coi là anh hùng cứu quốc của nước Anh thời Đệ Nhị Thế Chiến. Đó không phải là lần đầu ông Johnson gọi ông Diệm như vậy. Sáu năm trước khi còn là lãnh tụ khối đa số thượng viện Mỹ, ông đã nói y như vậy rồi.

         – Thị trưởng New York, Robert Wagner trong dịp Tổng Thống Ngô Đình Diệm thăm Mỹ năm 1957, đã mô tả ông như “một người mà lịch sử sẽ có thể liệt vào hàng vĩ nhân của thế kỷ 20” (xin xem Nguyễn Cao Kỳ, Twenty Years and Twenty Days, NXB Stein and Day, NY, 1976, trang 31).

         – Ký giả nổi tiếng Henry Luce đã viết trong bài xã luận của tuần báo LIFE ngày 2-5-1955, như sau:

         “Hết mọi con cháu của Cách Mạng Mỹ, và cả những kẻ thán phục xa xăm sau này phải hết sức vui mừng và hô lên rằng: “Hoan Hô Ngô Đình Diệm!” Công việc của Diệm chỉ vừa khởi sự, xem ra khá phức tạp, khó khăn hơn cả sứ mạng của George Washington. Vì ông ta không chỉ có một kẻ thù mà là nhiều kẻ thù: Cộng sản, người Pháp, bọn Bình Xuyên, và các giáo phái… Sức mạnh của Diệm càng lớn mạnh thì càng làm đơn giản công tác ngoại giao của Hoa Kỳ ở Sài Gòn. Công tác đó là, hay phải là, chỉ đơn giản ủng hộ Diệm hết mình.” (Henry Luce, “Revolution in VN”, Life 38, 9 May 1955, trang 3, trích dẫn theo America’s Miracle Man in Vietnam của Seth Jacobs, Duke University Press, Durham and L’Oneon 2004, trang 209.)

[5] Tướng Lawton Collins, bạn thân và là đặc sứ của Tổng Thống Eisenhower tại Sài Gòn lúc ấy đã 12 lần trong 6 tháng nhắc đi nhắc lại đề nghị xin Tổng Thống hãy thay thế Thủ Tướng Ngô Đình Diệm bằng bác sĩ Phan Huy Quát, hay bác sĩ Trần Văn Đỗ.

         Tướng Paul Ely đại diện tối cao của Pháp tại Việt Nam lúc ấy thường chế diễu những người Mỹ nào còn nghĩ ông Ngô Đình Diệm là một lãnh tụ ái quốc, vì “ông ta chỉ là một bù nhìn tệ hại nhất, không được nhân ân ủng hộ. Cho nên vì lợi ích của VN và của thế giới, không nên cứu Diệm”. Theo Seth Jacobs, tác giả cuốn America’s Miracle Man, thì khi tướng Mỹ Collins hỏi Ely có ủng hộ Quát hay Đỗ không thì được trả lời “ai cũng được, trừ Diệm.” (tr. 199)

[6] Tướng Nguyễn Văn Hinh, con cựu thủ tướng Nguyễn Văn Tâm, thường được mệnh danh là Con Hùm Xám Cai Lậy. Người Quốc Gia phần đông không ưa cha con ông. Nhưng họ có thế lực lớn với thực dân Pháp. Đã một thời tướng Hinh dùng đài phát thanh Quân Đội để kịch liệt đả kích Thủ Tướng Ngô Đình Diệm qua giọng nói đanh thép và truyền cảm của xướng ngôn viên Văn Thiệt. Nhưng sau khi tướng Hinh bị loại và phải chạy sang Pháp, cũng chính xướng ngôn viên này đã sang sảng trên làn sóng điện ca ngợi vị thủ tướng chiến thắng.

[7] Đầu năm 1956 Tổng Thống Ngô Đình Diệm yêu cầu Pháp rút hết quân. Và ngày 26-4-56 những bính lính Pháp cuối cùng rời Sài Gòn.

[8] Nhà báo Phan Thế Trường đã ghi lại trong một cuộc phỏng vấn cựu hoàng Bảo Đại tại Pháp khoảng năm 1992. Trong đó nhà báo đã nêu hai câu hỏi quan trọng liên quan đến việc nhà vua thoái vị, nhường quyền cho Hồ Chí Minh, và việc đức Quốc Trưởng trao toàn quyền dân sự, quân sự cho ông Ngô Đình Diệm. Tờ Diễn Đàn Phụ Nữ của cố ký giả Chử Bá Anh, số tháng 9 năm 1992 đã ghi như sau:

         “Hỏi: Tại sao Ngài lại trao quyền cho ông Ngô Đình Diệm để rồi ông này lật Ngài?

         “Vua Bảo Đại cũng trả lời ngay:

         “Ông Diệm là người tôi tín nhiệm. Lúc đó thế lực của Pháp đã thất bại. Phía cộng sản đã được Liên Xô tích cực ủng hộ về mọi mặt, nên tôi khuyên ông Diệm nên tìm sự ủng hộ của Mỹ để có thể ngăn chặn (endiguer) sự bành trướng của Cộng Sản. Việc ông ta lật tôi là do sức ép của chính trị. Ông Diệm là Người Yêu Nước. Lúc trao quyền tôi có yêu cầu ông ấy cam kết với tôi hai điều trước bàn thờ Chúa, vì ông ấy rất mộ đạo, là phải giữ vững miền Nam, và nếu không làm được sứ mạng ấy thì phải trao quyền lại cho tôi. Nhưng rồi ông ta đã chết khi thi hành nhiệm vụ. Dù sao ông ta cũng cố giữ lời cam kết mà không được.”

         Xin bạn đọc lưu ý những lời “Ông Diệm là Người Yêu Nước”, “cam kết hai điều trước bàn thờ Chúa, vì ông ấy rất mộ đạo”, và “rồi ông ta đã chết trong khi thi hành nhiệm vụ.”

         Đó là những lời tuyên dương một nhân vật mà Bảo Đại luôn luôn kính trọng.

         Nếu có đọc Con Rồng Việt Nam (Le Dragon d’Annam) của cựu hoàng thì sẽ thấy ông cũng viết tương tự như vậy, chứ không hề bao giờ có chuyện nhà vua hay hoàng hậu bắt ông Diệm phải quỳ gối trước họ để thề trung thành với nhà vua, như những người cố tình xuyên tạc lịch sử cỡ Đỗ Mậu hay những kẻ đứng sau ông này đã viết.

         Để đánh tan sự nghi ngờ của những ai còn bị luận điệu của ông Đỗ Mậu trong cuốn Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi làm mê hoặc, xin mời đọc một đoạn vắn trong cuốn hồi ký của Cựu Hoàng Con Rồng Việt Nam, trang 515: Xem chương 1 phần I, trước số chú thích 31.

         Cho đến nay thì đã rõ là ông Diệm không chủ tâm lật ông Bảo Đại. Ông đã bị đứng trước một sự việc đã rồi do 18 đảng phái chính trị lúc ấy họp nhau lại tại dinh Độc Lập để trả lời câu hỏi của Thủ Tướng Diệm là có nên sang Pháp theo lệnh của Quốc Trưởng hay không. Trong lúc ông Diệm lui vào thư phòng để cho mọi người tự do thảo luận và cho ông một lời khuyên, thì 18 đoàn thể này đã thành lập một hội đồng cách mạng để đồng thanh hạ bệ Bảo Đại. Khi ông Diệm được mời ra để nghe ý kiến của họ, thì ông đã vô cùng ngạc nhiên và lúng túng. Ảnh của Quốc Trưởng treo trên tường đã bị giật xuống.

         Sau đó tướng Nguyễn Văn Vỹ theo lệnh Quốc Trưởng đem quân sĩ dưới quyền đến định áp đảo vị thủ tướng, bắt ông trao lại binh quyền từ tay Đại Tướng Lê Văn Tỵ, liền bị một thành viên của Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng (ông Nhị Lang) tước vũ khí và đe dọa tính mạng, nếu không nhờ ông Diệm che chở, tướng Vỹ đã có thể bị bắn tại chỗ.

[9] Xin xem chú thích 8.

[10] Tướng Trình Minh Thế thuộc lực lượng Cao Đài Liên Minh. Ông chủ trương giống ông Ngô Đình Diệm, vừa chống Pháp vừa chống Cộng. Ông Diệm đã phái em ruột là ông Ngô Đình Nhu lên tận bản doanh của tướng Thế để thuyết phục ông về hợp tác với chính phủ. Chính luật sư Đinh Thạch Bích từng là phụ tá của tướng Thế cho biết ông đã chứng kiến cuộc gặp gỡ này, và thấy việc thuyết phục của ông Nhu khá khó khăn, nhưng cuối cùng đã thành công. Ông Bích cũng được chứng kiến việc ông Diệm ngất xỉu khi được tin tướng Thế bị giết trong khi chỉ huy liên quân đánh Bình Xuyên. Tướng Edward Lansdale, trong hồi ký cũng ghi lại sự việc ông Diệm vô cùng xúc động, khi nghe tin tướng Thế bị giết. Lansdale viết rằng đó là lần duy nhất ông thấy ông Diệm biểu lộ tình cảm, xúc động đến thế.

         Gần đây (tháng 8-2006) bà Trình Minh Thế và người con trai có phát biểu trên đài Tiếng Nói Việt Nam Hải Ngoại tố cáo ông Diệm đã giết chồng bà, làm mọi người ngạc nhiên và tự hỏi: Tại sao cho đến nay bà mới lên tiếng và vì mục đích gì, do động cơ nào? Ít ngày sau, luật sư Đinh Thạch Bích đã lên tiếng đưa ra quan điểm của ông. Theo luật sư Bích thì lúc ấy ông Diệm đang rất cần tướng Thế, và rất quý mến ông. Khó có thể nghĩ rằng chính ông lại muốn giết ông Thế.

         Tờ nguyệt san Diễn Đàn Phụ Nữ số 144 (tháng 3 năm 1996, cách nay hơn 10 năm), đã loan tin là trong cuốn sách của Thiếu Tá Savani, nguyên trưởng Phòng Nhì (Tình Báo) Pháp thời chiến tranh Đông Dương mới xuất bản đã cho biết, một gián điệp của Pháp đã bắn lén để sát hại tướng Thế mục đích nhằm trả thù cho tướng Chanson mà người của tướng Thế đã tung lựu đạn để giết cùng với ông Thái Lập Thành ngày 31-7-1951. (Xin xem DĐPN số 144, trang 24)

[11] Chỉ xin nêu cụ thể trường hợp hai chùa lớn nhất là chùa Xá Lợi và chùa Vĩnh Nghiêm. Chính phủ đã cấp 2 triệu đồng (lúc ấy giá hối đoái chính thức một Mỹ Kim chỉ có 35 đồng bạc VN) để trao cho ông Mai Thọ Truyền lo việc xây cất chùa Xá Lợi. Còn chùa Vĩnh Nghiêm được xây sau khi Tổng Thống đã mất. Nhưng khu đất trên đó xây chùa thì đã được Tổng Thống Diệm chấp thuận bán cho nhà chùa với giá tượng trưng một đồng bạc. Hai việc này các ông Huỳnh Văn Lang và Nguyễn Văn Minh đã đưa bằng chứng và nhân chứng trong các hồi ký của các ông. (Xin xem Dòng Họ Ngô Đình và giấc mơ chưa đạt, tr. 145-146.)

         Trong thời gian xảy ra vụ Phật Giáo từ tháng 5-1963, các ông Quách Tòng Đức, Nguyễn Thành Cung, Võ Văn Hải, và Trần Sử toàn là những Phật tử thuần thành trong bộ tham mưu của Tổng Thống đã đến gặp ông để xin ông cho phép công bố những món tiền và công việc chính phủ đã làm để chấn hưng và mở mang Đạo Phật. Nhưng, theo ông Lê Châu Lộc, lúc ấy có mặt bên cạnh Tổng Thống, Tổng Thống đã không đồng ý. Ông nói việc trùng tu, giúp các tôn giáo mở mang là bổn phận của ông, không nên kể công.

         Cũng nên thêm rằng ngay khi ông Diệm còn là Thủ Tướng, ngày 17-5-1956 (mồng 8 tháng 4 Âm Lịch) đại lễ Phật Đản đã được tổ chức long trong trước đó chưa hề có. Theo ông Đoàn Thêm, một Phật tử, đã có tới vài chục ngàn người rước Ngọc Xá Lợi qua các đường phố Sài Gòn. Và một năm sau, ngày 12-8-1957 tại Chùa Ấn Quang đã có hơn 100 vị sư học xong khóa huấn luyện 3 tháng và được phái đi các tỉnh giảng dạy Phật Pháp.

[12] Về chuyện này, khá dài dòng. Chúng tôi đã ghi lại trong phần Phụ Lục 3 của cuốn Ngô Đình Diệm, Lời Khen Tiếng Chê, lần xuất bản thứ 3, trang 350-352. Trong 2 lần in trước không có Phụ Lục 3 này.

[13] Đổng lý văn phòng: ông Quách Tòng Đức; Phó đổng lý văn phòng: ông Đoàn Thêm; Chánh Văn Phòng: ông Võ Văn Hải; Chánh võ phòng: trung tá Cao Văn Viên (tham mưu biệt bộ, sau này là tư lệnh Nhảy Dù, và là tổng tham mưu trưởng thời Đệ Nhị Cộng Hòa); Tổng thư ký: ông Nguyễn Thành Cung; bí thư: ông Trần Sử. Nghĩa là toàn bộ bộ tham mưu của Tổng Thống Diệm đều là Phật tử.

         Có thể kể thêm vài ví dụ nữa: Phó tổng thống: ông Nguyễn Ngọc Thơ, tổng tham mưu trưởng: Đại Tướng Lê Văn Tỵ, tổng trấn Sài Gòn Gia Định: Thiếu Tướng Tôn Thất Đính; Bộ trưởng Phủ Tổng Thống, kiêm bộ trưởng phụ tá Quốc Phòng (mà chính Tổng Thống là bộ trưởng): ông Nguyễn Đình Thuần; bộ trưởng Ngoại Giao: luật sư thạc sĩ Vũ Văn Mẫu. Bên lập pháp: 75 trong số 123 dân biểu Quốc Hội là Phật tử. Về Công Giáo, trong 19 tướng lãnh quyền hành nhất, thì chỉ có 3 là Công Giáo, v.v…

[14] Đó là công điện số 9159, ngày 6-5-1963 của văn phòng phủ Tổng Thống chuyển chỉ thị của Tổng Thống về việc treo quốc kỳ và cờ của tất cả các tôn giáo. Đáng lẽ đã phải được gửi đi từ hai tháng trước, nhưng lại để gần đến ngày Phật Đản mới gửi đi. Sự chậm trễ này là do một giới chức trong phủ Tổng Thống thi hành lệnh Tổng Thống chậm trễ, và vì thế đã gây hiểu lầm là Tổng Thống chỉ cấm treo cờ Phật Giáo trong dịp Lễ Phật Đản.

         Sở dĩ chỉ vì một lỗi lầm nhỏ về hành chính liên quan đến vấn đề treo cờ các tôn giáo mà có thể bùng nổ một cuộc khủng hoảng chính trị trầm trọng đưa đến sự sụp đổ một chế độ, và một vị tổng thống bị thảm sát, là vì đã có sẵn một âm mưu chính trị do một nhà sư đầy mưu trí và tham vọng chính trị.

         Cho đến khi miền Nam mất vào tay Cộng Sản, thì nhiều người đã nhìn rõ điều đó. Một nhân vật người Anh, trong phái đoàn của Sir Robert Thompson là Dennis J. Duncan-son đã viết trong cuốn Government and revolution in Vietnam (Oxford University Press, 1968) về thượng tọa Thích Trí Quang và cảm nghĩ của ông Ngô Đình Nhu về vị sư này như sau:

         “Ông Ngô Đình Nhu đã từng cho rằng thượng tọa Thích Trí Quang cố tình dàn dựng nên cuộc khủng hoảng Phật Giáo để giúp Việt cộng. Lúc ấy các nhà quan sát Tây Phương nói chung, thích nhìn thấy trong các hành động của nhà sư này chỉ có một sự sùng đạo mà thôi. Nhưng vị thế nổi bật của nhà sư trong những vụ xáo trộn còn nghiêm trọng hơn vào năm 1964, khi các yêu sách của Phật tử về các vấn đề tôn giáo đã được thỏa mãn, đã khiến nhiều người ngoại quốc cuối cùng quay lại đồng ý với ông Nhu…”

         Gần 20 năm sau, Tổng Thống Mỹ Richard M Nixon đã thấy rõ hơn và khẳng định trong tác phẩm nổi tiếng của ông No More Vietnams (ấn bản 1985 trang 10 và trang 65):

         “Vấn đề đàn áp tôn giáo là hoàn toàn bịa đặt… Trong đầu của những kẻ đứng đàng sau cuộc khủng hoảng là chính trị chứ không phải tôn giáo.”

         Cựu hoàng Bảo Đại cũng viết trong hồi ký chính trị Le Dragon d’Annam (Con Rồng Việt Nam, bản Việt ngữ, Nguyễn Phước Tộc, Cali, 1990, trang 543 và 545):

         “Tất cả đang tiến tới thì chính phủ (Ngô Đình Diệm) gặp phải sự chống đối của các nhà sư. Ông Diệm và Nhu là người Công Giáo. Các nhà sư được CS giật dây và mật vụ Mỹ tiếp tay, liền bắt đầu hành động. Chính quyền phải đối phó lại. Vô hình chung như mang mặc cảm kỳ thị tôn giáo… Ai đã xúc giục họ gây loạn, ai? Họ ở đâu tới? Làm sao biết được họ từ Hà Nội vào, hay từ Bắc Kinh tới?…”

         Những ý kiến trên của các ông Ngô Đình Nhu, Duncanson, Nixon, Bảo Đại được làm sáng tỏ và xác nhận một cách không còn thể nghi ngờ, bởi những hàng sau đây của ông Nguyễn Cao Kỳ, một Phật tử gốc, một trong những tướng lãnh làm đảo chính lật Tổng Thống Diệm:

         “Thích Trí Quang tưởng Cabot Lodge còn giữ cảm tình với mình như cuối năm 1963 nên có lần ông ta đến ngỏ ý với ông đại sứ Mỹ muốn lật tôi, thì bị Cabot Lodge hỏi: “Nhưng giả thử như thượng tọa lật được tướng Kỳ rồi thượng tọa sẽ đặt ai làm thủ tướng thay ông ta? Trí Quang ngồi im một lúc, suy nghĩ lung lắm. Rồi đưa ra một lời nhận xét khiến ông Lodge bàng hoàng: “Chúng tôi sẽ sẵn sàng đặt ông ta ngồi lại ghế thủ tướng.” (Xin xem Nguyễn Cao Kỳ, Twenty Years Twenty Days, Stein and Day, NY, 1976, trang 87)

         Đã rõ tham vọng và mục tiêu đấu tranh của nhà sư là làm quốc trưởng, có toàn quyền bổ nhậm thủ tướng, chứ không phải bảo vệ đạo Phật.

         Những cuộc tự thiêu có dàn dựng xếp đặt trước và được thông báo cho báo chí ngoại quốc trước để chụp hình quay phim làm chứng liệu đả kích chính quyền, và bao nhiêu mưu chước tinh vi khác, càng chứng tỏ không phải phát xuất từ lòng mộ đạo từ bi và hiếu sinh của Đức Phật.

         Sau khi CS chiếm toàn miền Nam, và đàn áp Phật Giáo, bắt giam những nhà lãnh đạo Phật Giáo, nhà sư muốn làm quốc trưởng ấy không hề lên tiếng hay có hành động gì phản đối nhà cầm quyền.

         Những sinh viên, Phật tử và một số nhà trí thức từng đi theo thượng tọa Thích Trí Quang nghĩ gì trước thài độ đó của ông ta? Thiết nghĩ, nên lấy công tâm và đạo đức của Đức Phật để nói lên sự thực hầu giải tỏa nỗi oan của ông Ngô Đình Diệm trước quần chúng Phật tử. Làm được điều đó sẽ giúp tạo sự đoàn kết rộng rãi trong nhân dân hầu chiến thắng Cộng Sản.

[15] Việc những cuộc tiếp xúc công khai cũng như bí mật của ông Ngô Đình Nhu với phía bên kia xin xem phần II soạn phẩm này.             

[16] Nhà báo Neil Sheehan, tác giả cuốn sách nổi tiếng A Bright Shining Lie, (về nhà báo này và tác phẩm nổi tiếng nói trên, xin xem Ngô Đình Diệm, Lời Khen Tiếng Chê, chương 20) sau một chuyến viếng thăm Việt Nam vào năm 1989, đã viết cuốn After The War Was Over, dầy 130 trang, nói tốt đủ điều cho chế độ Hà Nội. Nơi trang 77 ông đã thuật lại lời nguyên tổng bí thư Nguyễn Văn Linh thú nhận là thời đệ nhất Cộng Hòa số cán binh CS để lại ở miền Nam là 10,000 người thì đã bị mất đi 75%. Nguyễn Văn Linh đã giấu bớt một phần sự thật với nhà báo Mỹ. Vì theo đại tướng VC Văn Tiến Dũng, trong cuốn Cuộc Kháng Chiến Chống Mỹ Cứu Nước, (phần cước chú, trang 16) thì sự thiệt hại không phải chỉ có 7,500 người (75%) mà chỉ trong vòng 3 năm 1955-1958, nó đã lên đến trên 90%. Ông tướng này còn ghi rõ con số là từ 60,000 chỉ còn lại 5,000. Xem vậy đủ biết chính sách chiêu hồi và các chiến dịch tố cộng phi vũ trang đã thành công hơn bom đạn của Mỹ và đệ nhị Cộng Hòa những năm sau khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã bị lật đổ. Những con số 75% và trên 90% này không phải do chúng tôi bịa ra, hay lấy từ những nguồn tin bạn, hay từ văn khố đệ nhất Cộng Hòa, mà là những con số cụ thể từ chính những nhà lãnh đạo CS. Nhất là từ cuốn sách của Văn Tiến Dũng đã xuất bản.

[17] Ít nhất có một số sử gia và ký giả Mỹ nói đến việc Tổng Thống Diệm không muốn đánh mạnh, vì gây thương vong. Trong số đó phải kể đến Stanley Karnow, (Xin xem Vietnam, a history, trang 276), Neil Sheehan, Trung Tá John Paul Vann, và sử gia John M. Newman (Xem JFK and Vietnam của Newman, trang 289 và 299): Nơi trang 299 này có câu, nguyên văn: “Vann discovered Diem had issued a secret verbal order to his commanders not to conduct offensive operations that resulted in serious casualties.” (Trung tá Vann khám phá ra rằng ông Diệm đã ban khẩu lệnh mật bảo các tư lệnh không được mở những cuộc hành quân tấn công gây thương vong nặng.)

[18] Trong một bài báo giáo sư Trần Bích Lan, tức nhà thơ Nguyên Sa có thuật lại rằng ông, giáo sư Nguyễn Văn Phú và giáo sư Nguyễn Xuân Nghiên đã hỏi Tổng Thống Diệm câu này và được trả lời là, nếu đánh lớn, chiến tranh sẽ lan rộng và các cường quốc sẽ nhảy vào, đất nước sẽ tan hoang… Giáo sư Lan về sau đã nhận rằng câu nói của ông Diệm là đúng. Trong thâm tâm Tổng Thống Diệm chỉ muốn đánh CS bằng phương tiện hiện hữu, nhất là bằng các chiến lược, sách lược đấu tranh chính trị, chiêu hồi, thuyết phục, tuyên truyền v.v… không muốn để Mỹ đem quân vào. Thực tế lịch sử những năm sau đã chứng minh ông có viễn kiến chính trị sâu sắc.

[19] Gần đây (trong năm 2006), luật sư Lâm Lễ Trinh đã cho đăng tải nội dung cuộc mạn đàm của ông với ông Quách Tòng Đức, nguyên đổng lý văn phòng của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, trong đó ông Đức đã xác nhận chuyện cành đào có đính danh thiếp của ông Hồ Chí Minh chúc Tết (Quý Mão) Tổng Thống Diệm là có thực. Ông Lê Châu Lộc, lúc ấy là tùy viên của Tổng Thống, sau là nghị sĩ thời Đệ Nhị Cộng Hòa cũng xác nhận với người viết là chính ông đã đi nhận cành đào đó ở trụ sở Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến.

[20] Đáng kể nhất là hai ông Averell Harriman, thứ trưởng ngoại giao, và Rogers Hilsman, phụ tá ngoại trưởng, được sự tiếp tay của ông Forestall, cố vấn an ninh.

[21] Lúc ấy Trung Tá Nguyễn Ngọc Khôi, tư lệnh lữ đoàn đã bị các tướng đảo chính giữ tại bộ tổng tham mưu. Nên Thiếu Tá Nguyễn Hữu Duệ (sau này là đại tá, tỉnh trưởng Thừa Thiên, thời đệ nhị CH), nắm quyền tư lệnh đã xin Tổng Thống đưa xe tăng, thiết giáp lên đánh úp bộ chỉ huy đảo chính đóng tại bộ tổng tham mưu. Nhưng, theo đại tá Duệ, Tổng Thống không chấp thuận..

[22] Chỉ xin kể những lần đảo chính, chỉnh lý và thay đổi chính phủ mà tôi còn nhớ:

­         – Đảo chính Dương Văn Minh 1-11-1963.

         – Chỉnh lý Nguyễn Khánh 30-1-1964.

         – Sau đó là những xáo trộn, xuống đường biểu tình do cái gọi là Hiến Chương Vũng Tầu, những cuộc đánh phá nhau giữa một số Phật tử và dân Công Giáo di cư.

         – Cuộc đảo chính của các tướng Dương Văn Đức và Lâm Văn Phát.

         – Cuộc nổi dậy của lực lượng đặc biệt người Thượng.

         – Chính phủ dân sự ra đời với sự lãnh đạo của các ông Phan Khắc Sửu, Trần Văn Hương.

         – Cuộc vùng dậy của các tướng trẻ đòi giải tán Hội Đồng Quốc Gia, chống lại chính phủ Trần Văn Hương.

         – Chính Phủ Trần Văn Hương, dưới áp lực của các tướng trẻ phải cải tổ, thêm vào 4 tướng lãnh, để rồi ngày 16-2-1965 bị thay thế bởi chính phủ Phan Huy Quát.

         – Chỉ sau đó 3 ngày đại tá Phạm Ngọc Thảo đem quân chiếm Sài Gòn, toan làm đảo chính nhưng bất thành. Và một ngày sau, 20-2-65 tướng Khánh bị loại khỏi chức vụ tổng tư lệnh Quân Đội.

         – Những cuộc biểu tình của sinh viên Phật tử chống Mỹ liên tục xảy ra…

         Và sau hết là biến cố ngày 8-3-65 hai tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng, nhắm mục đích ổn định miền Nam, chống Cộng Quân. Nhưng đồng thời cũng mở rộng chiến tranh thành một cuộc chiến ác liệt, mà riêng số bom đạn sử dụng không thua kém thế chiến II. Kết quả là miền Nam bị rơi vào tay CS, vì siêu cường Mỹ đã không thắng được CS, bằng võ lực, cho nên không bảo vệ được miền Nam, mà chính Mỹ cũng bị mang “hội chứng Việt Nam” tận cho đến ngày nay. Không chỉ có kẻ thù mà bạn bè, và chính các nhà lãnh đạo Mỹ cũng như các sử gia Mỹ đều phải công nhận đó là một thất bại.

         Chỉ có một số ít người không hiểu chiến tranh ý thức hệ là gì, và không theo dõi thật sát các sự kiện lịch sử mới dựa vào thông cáo chung Trung-Mỹ tại Thượng Hải và mấy lời đối đáp giữa Chu Ân Lai và Kissinger để quả quyết rằng Mỹ không thua. Và Mỹ chỉ bỏ rơi Việt Nam Cộng Hòa khi đã nắm được Trung Cộng rồi (!).

         Do đó mà có sử gia Mỹ như nữ giáo sư Marilyn B. Young (trong cuốn Vietnam War) đã lấy làm tiếc là tại sao chính phủ Mỹ không chấp nhận kế hoạch của ông Ngô Đình Nhu là ít nhất rút một số cố vấn về, hay nhiều nhất là rút toàn bộ cố vấn Mỹ về để đệ nhất Cộng Hòa giải quyết cuộc tranh chấp với Hà Nội? Tuy nhiên với sự hiện diện của quân Mỹ, kèm theo sự trở lại chính quyền của nhóm tướng lãnh, sự ra đời của Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia đứng đầu là Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu và ủy Ban Hành Pháp Trung Ương, đứng đầu là chủ tịch Nguyễn Cao Kỳ, một thứ thủ tướng quân nhân, tình hình đã tạm ổn định sau khi ông Kỳ thẳng tay dẹp xong nhóm tranh đấu miền Trung, đứng đầu là sư ông Thích Trí Quang. Nhưng cũng phải đến khi có một hiến pháp mới và sự ra đời của Đệ Nhị Cộng Hòa, thì nội bộ miền Nam mới tạm ổn. Nhưng chiến cuộc với CS thì không vì những sự kiện trên mà giảm, trái lại càng ngày càng khốc liệt.

[23] Như đã nói ở phần trên, Tổng Thống Ngô Đình Diệm không muốn có sự hiện diện quân tác chiến Mỹ tại Việt Nam. Ngay số cố vấn lúc ấy đã từ vài trăm người lên đến 16,000 vào năm 1963 đối với ông là đã quá nhiều. Cho nên đã nhiều lần ông và cố vấn Ngô Đình Nhu đã có kế hoạch rút số cố vấn dần dần, và việc này chính Tổng Thống Ken-nedy cũng tán thành, và cũng chủ trương sẽ rút số cố vấn về, sau khi đắc cử nhiệm kỳ 2. Nhưng lúc ấy những thế lực siêu chính phủ trong chính giới Mỹ chỉ muốn đổ thêm quân vào, hoặc là để tốc chiến tốc thắng, như họ nói, hoặc là để tiêu thụ một số lớn vũ khí cũ từ thới thế chiến II, hoặc thí nghiệm một số vũ khí mới, như bom CBU… hoặc theo một chiến lược bí mật chống Trung Cộng nào đó. Vì vậy có giả thuyết cho rằng Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Tổng Thống Mỹ Kennedy đều là nạn nhân của những kẻ chủ trương đem quân tác chiến Mỹ ồ ạt vào Việt Nam. Cho nên, vẫn theo giả thuyết đó, sau khi hai vị tổng thống đã bị giết, và sau khi những người Việt Nam sẵn sàng làm theo ý của Mỹ đã ngồi vào địa vị lãnh đạo tại Việt Nam, Mỹ liền đổ quân tác chiến vào Việt Nam, bắt đầu bằng 2 tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến đổ bộ lên Đà Nẵng ngày 8-3-65.

         Đứng về mặt chiến tranh ý thức hệ, đó là một thảm họa. Vì đối phương sẽ có cớ để kết tội miền Nam làm tay sai hay bù nhìn cho Mỹ. Cuộc chiến mất chính nghĩa! Ít nhất là về phương diện tuyên truyền.

         Khi còn Tổng Thống Diệm, đã nhiều lần người Mỹ muốn thương lượng với ông về việc đưa quân tác chiến Mỹ vào. Ông chỉ trả lời là tình hình chưa cần. Và nếu có lúc cần tới thì sẽ có một hiệp ước song phương quy định các thể thức và địa điểm đóng quân, mà theo ông chỉ có thể đóng sát biên giới sông Bến Hải. Cựu đại sứ Frederick Nolting đã ghi trong hồi ký của ông From Trust To Tragedy rằng thương thuyết với ông Diệm về vấn đề này thực là khó khăn. Nhưng ông ghi nhận quan điểm của ông Diệm là chính đáng. (Xin xem Ngô Đình Diệm Lời Khen Tiếng Chê, chương 18.)

[24] Chỉ xin kể 3 người quan trọng nhất được CS cho nắm chức vụ trong cái gọi là chính phủ lâm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam: Trương Như Tảng – bộ trưởng Tư Pháp, (nữ bác sĩ) Dương Quỳnh Hoa – bộ trưởng Y Tế, và Lữ Phương – thứ trưởng Văn Hóa…

[25] Mà chúng tôi dịch là “Trong nanh vuốt lịch sử” và sau này tác giả dịch là “Gọng Kìm Lịch Sử”.

[26] Sách đã dẫn trang 338.

[27] Như đã trình bày trong chương “Ba giờ nghe một nhân chứng”.

[28] Về chi tiết xin xem Ngô Đình Diệm, Lời Khen Tiếng Chê của Minh Võ, ấn bản thứ 3 năm 2002.

[29] SĐD tr. 10 và 65

[30] Twenty Years And Twenty Days, trang 87. Chúng tôi chỉ dịch mấy câu cuối. Nếu đọc nguyên văn Anh ngữ cả trang sẽ thấy nhiều chuyện lý thú hơn nữa. Xin nhớ rằng ông Kỳ viết những hàng trên, khi ông Cabot Lodge hãy còn sống. Cho nên không thể bảo ông ta bịa ra được.

[31] SĐD tr. 730

[32] SĐD tr. 31. Chúng tôi nhấn mạnh mấy chữ vị cứu tinh của đất nước (trong sách của ông Kỳ) để nhắc lại cảm tình cũng như sự tin tưởng của người dân, nhất là những người di cư từ miền Bắc như gia đình ông Kỳ. Cũng vì nghĩ ông Diệm là vị cứu tinh của đất nước, cho nên nhiều người đã hoan hô, kính mến ông Diệm, trong đó có cả những văn nghệ sĩ tên tuổi như nhạc sĩ Ngọc Bích từng nổi tiếng với Phạm Duy, Văn Cao thời kháng chiến, không ngần ngại soạn cả một bài suy tôn Ngô Thủ Tướng.

[33] Hồi ký Le Dragon D’Annam, bản Việt ngữ Con Rồng Việt Nam, do Nguyễn Phước Tộc phiên dịch và xuất bản, California 1990, trang 188.

[34] Vietnam A History, Viking Pinguin, USA, 1991, tr. 295

[35] Có một vài người cho đến gần đây, vì một thành kiến nào đó, vẫn còn nói rằng Ngọc Bích và Thanh Nam miễn cưỡng làm bài Suy tôn Ngô Thủ Tướng theo lệnh trên. Nhưng ông Vũ Quang Ninh, lúc ấy là quản đốc đài Tiếng Nói Quân Đội, người chỉ huy trực tiếp của 2 nghệ sĩ đã quả quyết với người viết rằng họ tự động làm vì kính phục và nhớ ơn ông Diệm như hàng vạn dân di cư khác. Nếu có lệnh trên, thì lệnh đó chắc chắn đã phải qua ông Ninh. Ông Ninh còn nói Thanh Nam và Ngọc Bích sáng tác bài đó theo ngẫu hứng tại một quán nước ngoài phố. Nhạc Sĩ Phạm Duy cũng mới viết một bài tưởng niệm cố nhạc sĩ Ngọc Bích khi hay tin ông mất. Trong bài tưởng niệm cũng đã nhắc đến bài suy tôn này một cách trân trọng coi như một trong những tác phẩm đáng ghi nhớ của Ngọc Bích, là người có thời đã cùng với Phạm Duy và Văn Cao ở trong hàng ngũ kháng chiến với Việt Minh ngoài bưng.

         Có điều cũng nên ghi nhận thêm là ngày nay, trên nửa thế kỷ sau, trong một nền văn minh dân chủ cởi mở tại Mỹ, ai cũng có thể có cơ hội tham chính với cương vị lãnh đạo chính phủ, nhìn lại chuyện cũ, ắt không khỏi lấy làm buồn cười khi tưởng tượng mình đang nghe hát “Ngô Tổng Thống, Ngô Tổng Thống muôn năm.” Nhưng thiết tưởng, cũng nên công bình mà đặt bài hát đó vào khung cảnh thời gian và không gian lịch sử của nó để phê phán.

[36] Joseph Lawton Collins, Lightning Joe: An autobiogaphy (Baton Rouge: Lousiana State University, 1979), tr. 379.

[37] Thư gửi ngoại trưởng Dulles ngày 20-1-1955, DDRS, 1978, 295A.

[38] Không biết nhà báo Joseph Buttinger có phải là một người trong số “vài người Mỹ” này không. Nhưng chính ông ta cho biết “Mùa hè năm 1961 một số nhà dân chủ đã liên lạc với tôi ở cả Paris lẫn New York và đề nghị đưa ra lời kêu gọi nhân dân Việt Nam. Dựa vào đó tôi viết tài liệu sau đây, được in ở Paris. Họ đã ký lời kêu gọi, bằng Pháp văn và Việt văn này…”

          Nhân đây tưởng cũng nên phổ biến để độc giả biết “những nhà dân chủ” nào đó đã kêu gọi dân Việt qua văn phong của một ngoại nhân như thế nào. Đây là “tác phẩm cách mạng” của Joseph Buttinger được Minh Võ chuyển ngữ. Xin nhắc lại, tác phẩm của một Buttinger sau khi đã lột xác từ người ca tụng và ủng hộ thành kẻ lên án và chống đối Ngô Đình Diệm.

         Sau đây là bản dịch (của MV) lời kêu gọi do Buttinger viết giúp các lãnh tụ “dân chủ” từng liên lạc với ông để tìm cách lật ông Diệm:           

         “Gửi nhân dân Việt Nam đang bị sống trong nô lệ và áp bức!

         “Gửi những bậc nam nhi và thục nữ trên thế giới đang sống trong tự do!

         “Bảy năm sau hiệp định Giơ-ne-vơ chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương, nhưng chia đôi nước chúng tôi thành hai nửa què quặt, nhân dân VN đã không đạt được độc lập cũng chẳng có tự do sau một cuộc chiến anh dũng lâu dài. Ngày nay chẳng những chúng tôi là nạn nhân của hai nền độc tài, tuy nhằm hai mục tiêu đối chọi nhau nhưng cùng quyết liệt như nhau trong việc cai trị bằng bạo lực; nhân dân VN ngày nay còn phải chịu đựng một cuộc chiến tranh khốc liệt tàn ác, với chết chóc, hoang tàn.

         “Miền Nam mà bảy năm trước hấu hết người dân Việt đặt hết hy vọng vào tự do công bình xã hội, đã trở thành một vùng đất hoang về chính trị dưới sự cai trị độc tài của Ngô Đình Diệm khiến tự do đã bị trục xuất bằng gian lận và bạo lực.

         “Trong thế giới tự do, nơi Diệm tiếp tục kêu gọi sự giúp đỡ, chính quyền của ông ta, mặc dầu đã mất uy tín, hãy còn có thể gợi được sự thương cảm và ủng hộ qua lừa mị chính trị vô liêm sỉ. Tại quốc nội, nơi mà sự lừa phỉnh hết công hiệu, chế độ của ông ta chỉ hoàn toàn dựa vào một nhóm nhỏ những tay sai dễ bảo và dựa vào bạo lực chống những nhóm khác. Để được ngoại quốc ủng hộ, Diệm ca ngợi những lý tưởng của Thế Giới Tự Do. Nhưng báo chí bị khóa mõm, bầu cử gian lận, quốc hội gật và những trại tập trung giam giữ đối lập là một sự chế riễu dành cho dân chủ và nhân quyền.

         “Phương pháp cai trị của Diệm chẳng giúp gì cho sự bảo vệ miền Nam. Trái lại. Vì nhân dân từ lâu đã quá mệt mỏi với luận điệu của Diệm rằng đất nước chỉ được sống tự do nếu nhân dân bị tước quyền tự do, và vì chính Diệm thiếu mọi đức tính của một lãnh tụ được lòng dân, và của một nhà tổ chức lớn, nên sự cai trị bằng bạo lực của ông ta không hề mảy may tạo được đoàn kết quốc gia hay sức mạnh quân sự mà còn làm hỏng cả hai. Những công dân ngay thẳng đặt sự phục vụ nhân dân trên sự phụng sự bè lũ cầm quyền đã bị loại trừ một cách có hệ thống và bị vu cáo. Chính quyền vì thế trở thành bộ máy thư lại giết chết mọi sáng kiến, trở thành vô hiệu, lãng phí đưa đến nạn tham nhũng.

         “Điều đúng với chính quyền thì đáng buồn lại cũng đúng với quân đội. Sáng kiến bị coi là bất tuân, thăng chức phải tùy thuộc vào sự tùng phục hoàn toàn sự phán xét và ý muốn của tổng thống, chứ không phải tùy vào tài tổ chức hay chiến công. Những sĩ quan ưu tú chậm khen tổng thống nơi công cộng hoặc quá nổi tiếng trong đơn vị không bao giờ có cơ may nắm một vai trò quan trọng trong chiến tranh. Hơn nữa, tính cách cá nhân của chính quyền làm cho cuộc chiến do quân đội chỉ huy mất hẳn ý nghĩa quốc gia. Trong khi đó, sự oán ghét của nhân dân dành cho chế độ, khiến cho quân đội không được dân chúng ủng hộ là điều không có không thể được đối với một cuộc phản du kích chiến có hiệu quả.

         “Vì những hy vọng vắn vỏi đối với một miền Nam tự do hùng mạnh đã bị chế độ Diệm phá hủy, nhân dân Việt Nam bây giờ đang phải trải qua một giai đoạn đẫm máu và bi thảm trong cuộc chiến dành độc lập và tự do….”

         Lời bàn của người viết về thái độ của Buttinger: Thoạt kỳ thủy Buttinger đến Việt Nam, chỉ với mục đích chứng kiến sự thất bại của ông Diệm mà ông đánh giá là kẻ yếu kém chẳng có thể làm nên trò trống gì. Đến là để nhìn tận mắt sự thất bại. Nhưng khi thấy tận mắt những thắng lợi không ngờ của ông Diệm, thì nói toáng lên là phép lạ. Rồi đâm ra kính phục và triệt để ủng hộ. Nhưng vài năm sau, thấy ông Diệm không chịu mở rộng chính phủ cho một vài lãnh tụ đảng phái mà ông ta quen biết thì ông ta lại phê bình chê ông Diệm độc tài. Nhất là vì ông Diệm “cố chấp” không nghe lời Buttinger yêu cầu để cho các ông Phan Quang Đán, Nguyễn Tôn Hoàn (Đại Việt) một ghế bộ trưởng. Cho nên từ 1961 Buttinger quay ra giúp các phe phái chống ông Diệm, viết tuyên ngôn, lời kêu gọi chống Sài Gòn. Sau khi ông Diệm chết rồi ông lại viết sách thanh minh chuyện ông ủng hộ ông Diệm trong những năm đầu. Đến khi miền Nam mất vào tay Cộng Sản rồi thì Buttinger lại quay ra ca tụng Hồ Chí Minh, lên án tất cả các người Quốc Gia ở miền Nam Việt Nam. Đặc biệt ông còn chê trách các nhà lãnh đạo Mỹ đã “ngu dốt” không ủng hộ ông Hồ. Buttinger cho rằng nếu đừng xua đuổi ông Hồ thì ông ta đã có thể là một thứ Ti-tô hơn cả Ti-tô! (Vietnam, The Unforgettable Tragedy, Horizon Press, NY, 1977, trang 26: “Better Titoist than Tito himself”)

         Nhìn vào thái độ xoay như chong chóng đó đủ thấy lập trường chao đảo và tư cách lố lăng của một nhà báo và sử gia “nổi tiếng” trong trường phái tự xưng là “chính thống” của Mỹ.

[39] Nhà văn Xuân Vũ trong bộ hồi ký Đường Đi Không Đến, tập Đồng Bằng Gai Góc, trang 89 đã thuật lại lời của một đại đội phó Việt Cộng tên Bình, họ Lê tham dự trận Ấp Bắc kể lại cho tác giả như sau: Tiểu đoàn em chết gần hết. Ban chỉ huy tiểu đoàn không còn ai. Các ban chỉ huy đại đội hi sinh hoàn toàn. Em lúc đó là tiểu đội phó được cho làm đại đội phó. Nhưng đại đội em chỉ được 2 tiểu đội. Cả tiểu đoàn quân số 200, còn lại độ năm chục…”

[40] Tuần san Thời Đại (TIME) ngày 14-1-1966 viết: “Maggie wears mud like other women wear makeup” (tạm dịch: Maguerite trang điểm bằng bùn thay vì son phấn như các phụ nữ khác). Cô mất chỉ sau TT Diệm chưa đầy ba năm. Sau một chuyến công tác săn tin ở Việt Nam về nước cô bị bệnh nặng ngay khi còn trên máy bay, và qua đời sau đó 3 tháng. Trong khi bệnh nặng cô vẫn viết mỗi tuần 3 bài xã luận.

[41] Tóm dịch từ cuốn Deliver Us From Evil, The Story of Vietnam’s Flight to Freedom (214 trang) Farrar, Straus and Giroux xuất bản lần đầu năm 1956, dịch theo bản in lần thứ 21 năm 1967.

July 29, 2009 - Posted by | Uncategorized

1 Comment »

  1. đọc dc rồi,con cám ơn bác nhiều.bác ơi,còn 1 chuyện mà cháu muốn xin bác lắm,nếu bác thấy tiện thì giúp chau nhe.cháu rất mê tác phẩm thép đen của nhà văn đặng Chí Bình,nhưng khổ nổi trên mạng chỉ có audio phần I và II thôi.cháu rất muốn nghe phần còn lại,cháu cũng có liên lạc vớ bác ấy thế nhưng mà vì đang ở trong nước nên ko tiện mua đĩa của bác Bình.nếu bác có thì cho cháu xin.cháu hứa là sẽ ko úp len mạng để tránh gây thiệt hại cho Nhà SX.cám ơn bác.

    Comment by thuananh | July 29, 2009 | Reply


Leave a comment