Hồng Đức

Lưu bút

Tiên Đề

Cái tiên đề rất khó nhận ra dưới đây được nhắc đi nhắc lại bởi một vị lão thành trong suốt gần 1 thập niên. Mọi người dù yêu dân chủ và tôn trọng nhân quyền đến đâu đi nữa, rồi cũng sẽ bế tắc và sai lầm nếu không thấy và thực hiện đầu tiên việc này: Đặt ông Hồ Chí Minh vào đúng chỗ của ông ta. Chỗ đứng của ông ta là chỗ của những người có chí, có tài, có chân mệnh đế vương. Nhưng ông ta không có chỗ đứng trong số những người chồng gương mẫu, những người yêu chân thành, những người con hiếu thảo, hay những những người bạn chân tình… nói đâu đến chuyện ông ta có thể đứng vào chỗ của những người yêu nước Việt Nam xưa nay.

Đặt ông Hồ vào đúng vị trí của ông ta rồi, ta dễ dàng thấy ngay tất cả những gì đàn em ông –hay đúng hơn, những kẻ đã và đang lợi dụng ông cũng như trước kia ông lợi dụng họ– hiện nay đang làm đối với dân tộc Việt Nam, đối với đất nước Việt Nam để phục vụ cho ai đó là chuyện không lạ và thực ra là chuyện tất yếu. Có cái lạ không ngờ là sự nhất quán về tính cách của những con người ấy, đã hơn nửa thế kỷ mà cách nghĩ và cách làm của họ đều như cũ.

Bài dưới đây được cụ Minh Võ viết đã lâu, xin được lần giở lại hầu các bạn.

=======================

Biết Rồi Khổ Lắm Nói Mãi

Minh Võ

Có một độc giả và cũng là bạn, sau khi theo rõi các bài viết của tôi trong hơn một năm trời, đã biểu lộ sự chán ngấy bảo tôi: Đọc anh, sách cũng như báo, quanh đi quẩn lại cũng chỉ thấy có một đề tài: lật đổ huyền thoại Hồ Chí Minh, phát ngấy. Biết rồi khổ lắm nói mãi! Ngưng đi thôi nhé. Nghe anh bạn nói tôi mới giật mình nhìn lại, thì ra đúng thật.

1. Cuối cuốn “Phản Tỉnh Phản Kháng, Thực hay Hư” (trang 595) tôi đã viết: Trong khi chờ đợi, theo thiển kiến, một việc khẩn thiết cần làm ngay là tập trung trí lực vào việc phá vỡ huyền thoại về “người yêu nước” Hồ Chí Minh…

2. Gần cuối bài “Ý nghĩa một tượng đài” đăng trên nhật báo Người Việt dịp tháng tư đen năm 2000 cũng có câu: “Muốn đánh đổ chế độ cộng sản, không thể nào không đánh đổ huyền thoại về con người “anh hùng” Hồ Chí Minh…”

3. Trong buổi nói chuyện tại San Jose ngày 30 tháng 7 năm 2000, đến phần kết luận tôi cũng đã nói: “… Và điểm quan trọng nhất cần nhấn mạnh là đánh đổ huyền thoại về “con người yêu nước, anh hùng dân tộc” Hồ Chí Minh… ”

4. Nơi cuối bài báo “Nỗi niềm chua xót khi đọc một cuốn sách nhỏ” đăng trên Việt Báo đầu năm 2001, tôi lại nhai nhải nhắc lại: “Tắt một lời, theo thiển ý, nếu không đánh đổ được huyền thoại Hồ Chí Minh.., thì tất cả cố gắng của người Việt quốc gia hải ngoại chỉ là những cố gắng vô vọng.

5. Sau đó một tháng vào đầu xuân Tân Tỵ, tôi lại viết trong bài “Chất Cay Truyền Qua Đường Giây Điện Thoại”: “Theo thiển ý, đánh đổ huyền thoại Hồ Chí Minh là việc làm có tính chiến lược, có thể ví như cái gốc cây cần bứng đi.”

6. Trong bài “Khổng Giáo và Hồ Giáo” liên quan đến cuốn Tổ Quốc Ăn Năn của Nguyễn Gia Kiểng, tôi cũng kết luận: “Chính vì vậy mà tôi thiển nghĩ, cuộc cách mạng tư tưởng, cách mạng văn hóa, cách mạng chính trị, xã hội mà ông Nguyễn Gia Kiểng chủ trương chỉ có thể thành công khi nào đánh đổ được thần tượng Hồ Chí Minh, nó đã biến cái chế độ xhcn ở VN ngày nay thành một thứ Khổng Giáo hiện đại hóa –chữ của ông Kiểng– hay một thứ Hồ Giáo.”

Không biết tôi còn quên lần nào nữa không, nhưng 6 lần trong một năm kể cũng là nhiều quá rồi. Hèn chi mà anh bạn chẳng thốt lên: Biết rồi khổ lắm, nói mãi.

Nay ngồi nghĩ lại và tự kiểm điểm thì thấy rằng: Cái điệp khúc chói tai lảm nhảm đó phát xuất từ nỗi tự ty mặc cảm. Đã già (cổ lai hy rồi), trí khôn đã bắt đầu mụ mẫm, quên trước quên sau, phương tiện thì lại không có, tôi cảm thấy mình bất lực không thể làm được việc mình thấy cần làm, cho nên kêu toáng lên để hy vọng có ai làm thay.

Nhưng chẳng lẽ lại vô trách nhiệm đến như vậy? Cho nên dù đã sức tàn hơi kiệt, tôi cũng cố nêu ra đây một vài ý kiến để may ra có vị thức giả nào tuổi trẻ tài cao, do một cơ duyên huyền bí nào đó “chẳng may” để mắt tới mà suy nghĩ và thấy là có ích thì đem biến nó thành hiện thực. Nếu một vị làm không nổi thì hai vị, ba vị chắc sẽ thành công. Như vậy là tôi mãn nguyện.

Còn nếu quý vị có dịp để mắt tới mà lại thấy ý kiến của tôi lẩm cẩm, cũ rích, lỗi thời, xa rời thực tế thì cũng đành cam chịu, và xin hãy tha cho tôi cái tội làm mất thì giờ của quý vị.

Tôi nghĩ lẩm cẩm như thế này: Ngoài những người đã biết rõ ông Hồ, có kinh nghiệm nước mắt và xương máu với ông ta và cái đảng của ông ta, tôi không dám nói. Còn đại đa số những người –VN cũng như ngoại quốc, nhất là ngo
i quốc– đã từng tôn vinh ông Hồ, coi ông ta như một người yêu nước, một anh hùng dân tộc, một vĩ nhân là vì họ không biết rõ về ông, không biết rõ về những bí ẩn đàng sau cuộc chiến VN. Và sở dĩ họ không biết rõ được hai vấn đề đó là vì họ không đem chúng vào bối cảnh đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác-xít, lấy “bạo lực cách mạng” làm phương tiện, lấy “chuyên chính vô sản” trên toàn thế giới làm cứu cánh. Đàng khác họ cũng không theo rõi trong thực tế những chiến pháp, chiến lược sách lược đấu tranh “cách mạng” do những chiến lược gia đầu sỏ là Lê-nin, Stalin và Mao Trạch Đông chiếu theo những giáo điều Mác-xít mà đề ra. Những chiến lược chiến thuật quân sự, chiến lược sách lược chính trị này nó thiên biến vạn hóa là nhờ các tác giả của nó đã vận dụng lề lối suy luận của duy vật biện chứng là một lối suy luận linh hoạt không ngừng biến đổi.

Vì suy luận như thế nên tôi đã tự đề ra cho mình một dàn bài tổng quát hết sức tóm lược để nghiên cứu cách đánh đổ huyền thoại Hồ Chí Minh như sau:

Tác phẩm sẽ gồm có 5 phần: Lý thuyết, Chiến lược sách lược, lịch sử chiến tranh VN, lịch sử đảng c.s.VN và tiểu sử của ông Hồ Chí Minh.

1. Về phần lý thuyết, ôn lại một cách hết sức tóm tắt những nét đại cương về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Mác.

a) Về thuyết duy vật biện chứng: Tóm tắt 4 định luật về tính tương đối của sự vật, mầm mâu thuẫn trong các sự vật, tính biến đổi không ngừng của sự vật và định luật lượng biến chất biến… để nắm được cách suy luận của các cán bộ cao cấp cộng sản là những người đã được học kỹ về thuyết Mác-xít và duy vật biện chứng pháp. Biện chứng pháp có cái ưu điểm là rất linh động biến hóa. Nhưng khi Mác đã xa rời ông thầy của mình là Hégel để thêm vào vế “duy vật” thì nó lại trở thành tai hại. Trước hết vì nó không chấp nhận cái tuyệt đối. Cho nên chính nó phủ nhận nó: đã không có gì tuyệt đối thì ngay cái định luật “không có gì tuyệt đối” cũng không tuyệt đối đúng. Hơn nữa định luật mọi sự đều thay đổi, đi kèm với định luật trên, làm cho những người Mác-xít trở thành tiền hậu bất nhất, lá mặt lá trái; bạn đấy rồi thù cũng đấy; nói một đàng làm một nẻo; không tôn trọng những điều ký kết, hứa hẹn… Tóm lại cứu cánh biện minh cho phương tiện. Vì lối suy nghĩ, biện luận của họ thay đổi bất thường như vậy cho nên sách lược của cộng sản rất khó dò. Chính vì Hồ Chí Minh cũng như các cán bộ cao cấp c.s. một khi đã thấm nhuần tư tưởng duy vật biện chứng đều suy luận và hành động như vậy cho nên họ mới có tài đóng kịch, không băn khoăn thắc mắc gì về các nguyên tắc đạo lý, khiến người ngoài, với lề lối suy luận thông thường không thể nào hiểu biết tường tận được, do đó thường thụ động tiêu cực, bị cộng sản đánh trong bất ngờ.

b) Về duy vật sử quan: Ôn lại những nét đại cương về thuyết tiến hóa theo vũ trụ quan Mác-xít và lịch sử loài người theo 5 thời kỳ, với 5 chế độ: cộng sản nguyên thủy, nô lệ, phong kiến, tư bản rồi cuối cùng cộng sản để hiểu rõ bản chất của cuộc đấu tranh giai cấp: mục tiêu tối hậu của nó là tiêu diệt mọi giai cấp, nhất là giai cấp tư sản, để cuối cùng đem giai cấp vô sản lên nắm quyền chuyên chính trên toàn thế giới. Khi giai cấp vô sản đã làm chủ thế giới thì đó sẽ là thiên đàng trần gian. Ngày nay ai cũng thấy đó chỉ là ảo tưởng, phát xuất từ những phân tích hời hợt thiếu khoa học. Nhưng trước khi Đông Âu và Liên Xô sụp đổ thì nhiều người còn “hy vọng” những tiên đoán của Mác có thể sẽ thành sự thực. Trưng dẫn những văn bản chính thức, những lời tuyên bố của các nhà lý thuyết và các lãnh tụ cộng sản liên quan đến quyết tâm thực hiện cho bằng được quyền chuyên chính vô sản.

c) Nghiên cứu những biến cố chính trị, những hành động của các đảng cộng sản trên thế giới, đặc biệt là tại VN để hỗ trợ cho những lập luận về lý thuyết nói trên để chứng minh rằng chính quyền là mục tiêu chính và tối hậu của cộng sản, chứ không phải độc lập cho tổ quốc hay tự do cho nhân dân. Chứng minh rằng cộng sản luôn luôn dùng mọi phương tiện, bất cứ nó phát xuất từ đâu, phần lớn là bạo lực, để đạt mục tiêu. Vì bản chất của cái gọi là cách mạng vô sản là cách mạng bạo lực. Cộng sản coi bản chất của cách mạng là bạo lực. Và chính quyền mà họ cần đạt được bó buộc phải phát xuất từ họng súng. Những cuộc thương thuyết, hòa đàm… chỉ là kế hoãn binh hoặc trá hàng. Phần lớn cùng với thương thuyết là chuẩn bị chiến tranh, và hòa đàm trong khi tung ra những trận đánh lớn; vừa đàm vừa đánh. Trưng dẫn sự kiện lịch sử để chứng minh.

2. Về phần chiến lược, sách lược đấu tranh: Sau khi đã chứng minh bằng lý thuyết duy vật biện chứng và duy vật lịch sử rằng mục tiêu tối hậu và tối cao của cộng sản là bá chủ thế giới, nắm quyền chuyên chính, ta sẽ dễ dàng dùng chính những tác phẩm về chiến tranh, về cách mạng, về các phương pháp đấu tranh… của các lãnh tụ cộng sản đặc biệt là cuốn “những nguyên lý của chủ nghĩa Lê-nin” do Stalin biên soạn, và “cương lĩnh về chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa thuộc địa” của Lê-nin, để chứng minh rằng cái gọi là chủ nghĩa quốc gia, dân tộc, lòng yêu nước của các người cộng sản chỉ là sách lược giai đoạn, chứ không phải là mục tiêu tối hậu và tối cao của cộng sản. Những sự kiện lịch sử tại VN và các nước cộng sản, nhất là Trung Cộng sẽ là những bằng chứng cụ thể thêm vào các chứng lý về lý thuyết chiến tranh, chiến lược của những Lê-nin, Stalin, Mao Trạch Đông.

Dẫn chứng từ lịch sử đảng csVN và chiến tranh VN để thấy rõ hình thức tổ chức quần chúng với vỏ bọc mặt trận (từ mặt
trận dân chủ, mặt trận thống nhất dân tộc, đến mặt trận Việt Minh, Liên Việt rồi mặt trận Tổ Quốc v.v… nhất là Mặt trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam) chỉ là một hình thức sách lược đấu tranh để loại bỏ mọi thành phần chống đối, hay có hành động độc lập, hầu dành độc quyền lãnh đạo, rồi toàn quyền thống trị nhân dân.

3. Về lịch sử cuộc chiến tranh VN: Đi từ những tổ chức quốc gia chống Pháp trước khi đảng cộng sản ra đời từ Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, đến Nguyễn Thái Học.. nhất là những tổ chức chống Pháp “lánh nạn” hoạt động tại miền Nam Trung Quốc, trong thời gian Hồ Chí Minh cũng hoạt động và bị bắt rồi được thả ở đây… Nhưng đặc biệt chú trọng vào thời gian sau thế chiến II cho đến 30 tháng tư năm 1975. Cuộc chiến tranh giữa VM và các đảng phái quốc gia, kể cả với nhóm Tờ Rốt Kít, các giáo phái miền Nam. Sự kiện Việt Minh do c.s. lãnh đạo đã cùng với Pháp tiêu diệt các đảng VNQDĐ, VNCMĐM Hội, Đại Việt để bảo vệ cái gọi là “thỏa ước mồng 6 tháng 3. Cuộc chiến giữa VM và quân đội Pháp, giữa VM và chính phủ Bảo Đại. Trận Điện Biên Phủ. Cuộc chiến tranh khuynh đảo, giành dân cướp đất, ám sát, bắt cóc, du kích vân vân thời Đệ I C.H. Và sau cùng là cuộc chiến đẫm máu giữa cộng quân Bắc Việt và Đệ II CH và Đồng Minh. Phân tách những trận đánh lớn và phương pháp tác chiến trong mỗi thời kỳ để đi đến kết luận là cs chiến đấu vì mục tiêu tối hậu là nắm lấy quyền bính tại một quốc gia để giúp Liên Xô (cầm đầu Quốc Tế 3) đánh bại phe tư bản trên toàn thế giới… Phân tích các hiệp ước, hiệp định, thỏa ước trong các thời kỳ này để thấy dã tâm cs tiếp tục đẩy toàn dân vào cuộc tàn sát một cách không cần thiết, nếu nói là để dành độc lập, vì trong các thời gian này nhiều lần VN đã có tự chủ, độc lập, mặc dù nền độc lập chưa hoàn toàn và được cụ thể hóa, do vc phá hoại.

Chúng ta thường nghe nói cộng sản cướp công kháng chiến. Chẳng những phía cộng hoàn toàn bác bỏ mà các sử gia quốc tế cũng cho đó là vu khống. Vì vậy phải chứng minh. Nhiều sách báo đã từng nói Hồ Chí Minh cùng với Lâm Đức Thụ bán đứng Phan Bội Châu. Nhưng cũng nhiều tác giả Mỹ cho là không có bằng chứng. Phải tìm ra bằng chứng. Và biết bao chuyện khác liên quan đến việc Hồ Chí Minh và đồng đảng tàn sát các người quốc gia, kể cả những lãnh tụ tên tuổi như Lý Đông A, Trương Tử Anh, Huỳnh Phú Sổ, và một lô đồng chí của họ, không kể phe Đệ Tứ Tờ Rốt Kít. Hãy tìm tài liệu, nhân chứng để chứng minh những việc đó để đi đến kết luận rằng mục đích của Hồ Chí Minh và đồng đảng là chính quyền, độc quyền cai trị, chứ không phải vì chủ nghĩa dân tộc, vì lòng yêu nước.

Cuộc chiến đã vô cùng tàn bạo, theo đúng chủ trương bạo động cách mạng. Nhắc lại một số trận lớn trong đó chiến thuật biển người được xử dụng không dè dặt. Nhắc lại những hiệp ước Vinh Hạ Long 1948 và hiệp ước Elysee 1949 để chứng minh Hồ Chí Minh và đồng đảng chỉ nhắm cầm quyền độc quyền, cho nên khi đã có độc lập trên pháp lý được thế giới công nhận rồi, họ vẫn quyết chiến với phe quốc gia để cuối cùng dành chính quyền trên toàn quốc, lại được tiếng là có công thống nhất tổ quốc. Cần phân tách kỹ và so sánh giữa các hiệp ước nói trên với thỏa ước mà cs ký vơi Pháp ngày 6-3-46. Nhiều nhà sử học cho rằng hiệp ước Elysee 49 chỉ có trên giấy tờ, quyền hành vẫn nằm trong tay Pháp. Cần tìm bằng chứng lịch sử và pháp lý để đánh đổ lập luận này.

Hãy chứng minh rằng trong rất nhiều trận lớn nhỏ, cs Bắc Việt đã đẩy đàn em là MTDTGPMN ra đỡ đạn, để gián tiếp tiêu diệt những người còn nặng lòng với chủ nghĩa dân tộc, chưa dứt khoát đi theo chủ nghĩa quốc tế vô sản. Cũng như trong thời gian đầu khi cuộc chiến bắt đầu kể từ tháng 12 năm 1946 đến 1950, Cộng quân đã tránh né đụng độ với đối phương, mà thường đẩy nhân Tự Vệ ra làm bia đỡ đạn.

Nhiều người đã nói trong những trận kịch chiến cs đã xích binh lính của họ vào xe tăng để không thể bỏ chạy khi bị tấn công nặng, chứng tỏ con người đối với cộng sản chỉ là những bánh xe, con ốc. Cần có nhân chứng và tài liệu xác thực, thì mới có tính thuyết phục.

Đặt cuộc chiến tranh VN vào khuôn khổ và bối cảnh cuộc đấu tranh giai cấp của thuyết Mácxít, và mục tiêu chuyên chính vô sản, nghĩa là mục đích cuối cùng của cuộc chiến tranh, thì thấy ngay tính chất tàn bạo, không khoan nhượng, bất chấp mọi thủ đoạn gian xảo, giả dối, lừa bịp của cs. Nhiều nhà sử học Tây phương cũng có nói đến chiến tranh cách mạng của VC. Nhưng họ không hiểu rằng cách mạng của c.s. là cách mạng giai cấp bằng bạo lực, chứ không phải cách mạng dân tộc, hay cách mạng xã hội có thể không cần tới bạo lực. Có đặt vào khuôn khổ và bối cảnh đó thì mới giải thích được tại sao VC lại tàn sát người quốc gia, tại sao khi người quốc gia đã tranh đấu ôn hòa để được độc lập (với hiệp ước Elysée) mà họ vẫn tiếp tục chiến đấu và gọi phe quốc gia là Việt gian, để hô hào quần chúng chống lại, nếu chính họ không công khai ra tay tàn sát. Và cũng mới hiểu được tại sao hay xảy ra những trận đẫm máu với chiến thuật biển người, và nhất là tại sao ngay sau khi toàn thắng họ bèn thực hiện những cuộc cải cách ruộng đất đẫm máu, cải tạo tư sản theo đúng chính sách đấu tranh giai cấp, mà không cần che giấu bộ mặt thật của họ.

Một số sử gia thường so sánh Hồ Chí Minh với Võ Nguyên Giáp rồi bảo VNG ương ngạnh, hiếu chiến, hiếu sát, còn Hồ Chí Minh thì ôn hòa, mềm dẻo, nhũn nhặn, dễ thương lượng, vì những sử gia đó không nắm được hai mặt khác nhau của một chiến lược đấu tranh thống nhất. Joseph Buttinger trong tác phẩm “VN A Dragon Embattled” 660 trang (trang 387) đã viết: “Nhiều nhà quan sát tin rằng chiến tranh bùng nổ là vì Hồ Chí Minh vào lúc quyết định, đã không điều khiển được những phần tử c
c đoan đứng đàng sau VNG”. Những người từng có kinh nghiệm với cộng sản, từng là nạn nhân cs thì thấy khác: Hai thái độ khác nhau đó phát xuất từ một tập thể, một đường lối thống nhất: kẻ đánh người xoa, bàn tay sắt bọc nhung, cấp trên đỗ lỗi cho cấp dưới. Cấp trên ra lệnh cho cấp dưới làm, nhưng có ai khiếu nại thì bảo tôi không biết, việc đó do cấp dưới làm trong hoàn cảnh chiến tranh, khó tránh. Ví dụ trong vụ c.s. giết Phạm Quỳnh và cha con Ngô Đình Khôi, đó cũng là câu trả lời của Hồ Chí Minh cho Ngô Đình Diệm khi bị ông này cật vấn: “Tại sao các ông giết anh tôi và cháu tôi?” để khước từ lời Hồ Chí Minh mời ông làm bộ trưởng nội vụ trong “Chính Phủ Kháng Chiến” hồi 1945. Hãy đưa ra những ví dụ khác tương tự, rất nhiều. Võ Nguyên Giáp không bao giờ dám qua mặt Hồ Chí Minh. Chính ông này đã nói với tướng Salan (theo Jean Lacouture) rằng những tay như Đồng, Chinh, Giáp là do ông ta tác tạo. “Bọn họ làm được quái gì?” Về sau, sau khi Đệ I Cộng Hòa bị lật đổ, Bắc Việt ồ ạt đem quân vào nhắm đánh chiếm miền Nam khẩn cấp (Nghị Quyết 9 tháng 12, 1964) nhiều người cũng bảo lúc ấy Hồ Chí Minh chủ trương ôn hòa không muốn, nhưng bị Lê Đức Thọ và Lê Duẫn khống chế. Điều này cũng do óc tưởng tượng, hoặc bị lầm vì tài đóng kịch của Hồ Chí Minh. Lê Duẫn là người được Hồ Chí Minh chọn đưa từ một địa vị tầm thường lên làm tổng bí thư. Chính vì vậy mà khi Hồ chết rồi, bọn Lê Duẫn, Lê Đức Thọ mới chủ trương xây lăng để tôn thờ và nhớ ơn “Bác”.

4. Đọc lịch sử đảng cộng sản VN do chính họ viết để tìm ra những bằng chứng mà họ vô tình cung cấp để chứng minh sự lệ thuộc của họ vào Quốc Tế 3 (hoàn toàn do Liên xô chi phối, điều khiển). Ví dụ 1: hình sao chụp bức thư của Quốc Tế 3 bằng Pháp ngữ gửi cho 3 đảng cộng sản (Đông Dương Cộng Sản Đảng, An Nam Cộng Sản Đảng và Đông Dương Cộng Sản Liên Đoàn) để thống nhất lại làm một. (Bức hình này có đăng trên cuốn “Bước Ngoặt Vĩ Đại Của Đảng CSVN” của Lưu Quý Kỳ xuất bản cuối thập niên 50. Nhưng sau này không tìm đâu ra. Có lẽ đã bị thu hồi? Ví dụ thứ hai: Chỉ ít lâu sau Liên Xô lại chỉ thị phải đổi lại là Đông Dương Cộng Sản Đảng, không được để VNCSĐ. Ví dụ thứ 3: Cũng Liên Xô chỉ thị phải lấy ngày 3-2-30 làm ngày đảng ra đời, không được lấy ngày 6-1-30. Một ví dụ nữa, trước khi họp đại hội đầu tiên ở Thượng Hải ngày 20 tháng 10 năm 1930, Trần Phú và Hồ Chí Minh đã phải liên lạc trước với Hilaire Noulens để nhận chỉ thị. Trong hội nghị này Hồ Chí Minh đã đại diện cho Quốc Tế 3 chủ tọa, và trong hội nghị Trần Phú đã được bầu làm tổng bí thư đầu tiên.

Và không biết bao nhiêu chỉ thị, huấn thị khác.

Rất nhiều nhà bất đồng chính kiến hay cựu cán bộ cộng sản phản tỉnh có thể cung cấp những tài liệu về lịch sử đảng cộng sản trái ngược với “chính sử” của chính cán bộ c.s. viết.

Ngoài ra có thể tìm ở văn khố của Liên Bang Nga, còn tồn trữ nhiều tại liệu mật của Liên Xô cũ đã được giải mật để trưng ra những bằng chứng về việc đảng c.s.VN chỉ là một chi bộ của c.s.quốc tế phục vụ quyền lợi Liên Xô.

5. Chịu khó đọc lại tiểu sử của ông Hồ. Ngoài những cuốn do các sử gia cộng sản, do đàn em như Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, và chính ông ta viết về mình, dưới nhiều bút hiệu khác nhau, như Trần Dân Tiên, T.Lan… còn có rất nhiều tác giả Pháp, Mỹ, Anh và nhiều nước khác. Phải nhìn nhận, nhờ có cả một kế hoạch tuyên truyền sâu rộng, chẳng những trong nội bộ, trong nhân dân toàn quốc, mà còn trên cả thế giới nhờ bộ máy tuyên truyền vĩ đại của cả khối cộng, nên người ngoài, không am tường về những mánh lới tiểu xảo của cs không thấy được những cái bịa đặt, thêm thắt nhằm thần thánh hóa ông Hồ. Về phía các đảng phái quốc gia, và nhân dân trong nước, rất nhiều người thấy rõ những cái bịa đặt, tô điểm thêm thắt đó, nhưng lại thường chỉ nói không mà không biên soạn thành những tác phẩm đứng đắn có dẫn chứng, nhân chứng hẳn hoi, nên người ngoài không biết, hoặc không tin.

Đã từng có nhiều người nói đến sự bịa đặt rằng ông Hồ ra đi năm 1911 là để tìm đường cứu nước và trưng bằng chứng là lá thư ông ta gửi nhà cầm quyền Pháp xin được theo học tại trường thuộc địa có ghi rõ là “để phục vụ chính phủ”. Nhưng nếu chỉ viết vắn tắt như vậy thì không thuyết phục. Cần có bản sao chụp của lá thư đó, và phải giải thích khá dài dòng, đưa ra nhiều luận cứ thuận và nghịch thì mới có thể thuyết phục được những học giả quốc tế. Bởi vì c.s. có thể nói: Ông Hồ viết thư như thế để đạt mục đích, chứ thực tình ông không nghĩ thế. Nghĩa là ông muốn học để cứu nước, nhưng nếu nói thế thì làm sao nhà cầm quyền Pháp cho ông theo học… cho nên ông phải nói dối là để phục vụ chính phủ. Ta vẫn thường bảo ông là tổ sư nói dối mà. Nói dối để đạt mục đích cứu quốc và nuôi chí lớn thì đâu có tội.

Cũng nhiều người nói đến việc thân phụ ông Hồ bị cách chức vì lý do nghiện rượu đánh người trọng thương, rồi chết chỉ vài ngày sau đó, chứ không phải ông ta từ chức để chống thực dân, cũng không phải ông ta có hoạt động cách mạng cho nên Pháp sa thải ông… Vì vậy muốn thuyết phục người đọc có trình độ, cần trưng bằng chứng trên giấy trắng mục đen. Văn khố Pháp có thể cung cấp tài liệu.

Có nhiều người nói ông Hồ đã từng là điệp viên của quốc tế 3 có lãnh lương tháng và khi đi công tác có được cấp công tác phí đàng hoàng. Nếu có thể tiếp cận những tài liệu mật trong văn khố Liên xô cũ, thì trưng bằng chứng không khó. Truyện ông Hồ có theo học trường Lao Động Đông Phương, thường được gọi là trường Stalin là có thật. T
rường này dạy những gì? Có dạy tình báo gián điệp không? Có dạy chiến thuật khuynh đảo không? Có dạy quân sự không? Chắc là có. Nhưng cần trưng bằng chứng –ít ra là về mặt nổi– bằng những chương trình chắc chắn còn để lại trong văn khố Liên Bang Nga. Về mặt chìm thì có thể rất khó tìm, nếu không nói là không thể tìm được, vì sau một biến cố nào đó, chúng thường bị thủ tiêu để giữ bí mật. Khi đã chứng minh ông Hồ là gián điệp Liên Xô, được Liên Xô tuyển dụng, huấn luyện và cấp học bổng, rồi khi đi công tác cũng được Liên Xố cấp công tác phí, thì sẽ dễ chứng minh ông ta chiến đấu chống Pháp, chống Mỹ, nhất là chống VNCH, tàn sát các nhà lãnh đạo cách mạng VN, chỉ vì mục đích do Liên xô đề ra, chứ không phải vì lòng yêu nước. Ông chỉ nói yêu nước, để đánh lừa nhân dân, dùng đó như một mánh lới đẩy nhân dân vào chỗ chết hàng triệu người không thương xót.

Đó chỉ là một vài ví dụ trong số không biết bao nhiêu sự việc có thể nêu lên và chứng minh.

Ngoài ra còn có nhiều sự việc, tuy không thể trưng được bằng chứng trên giấy trắng mực đen, nhưng nếu có nhiều chứng nhân quan trọng có uy tín và lời lẽ khả tín thì cũng có giá trị thuyết phục. Ví dụ chúng ta thường nghe nói thời ông Hồ vắng mặt 5 tháng ở bên Pháp để dự hội đàm Fontainebleau, đàn em của ông đã giết không biết bao nhiêu người thuộc các đảng quốc gia khác như VNQDĐ, Đại Việt, VNCMĐMH. Nếu những đảng viên cao cấp của các đảng này, như cựu đại sứ Bùi Diễm, thuộc đảng Đại Việt chẳng hạn, (trong cuốn “In The Jaws Of History”,) thay vì chỉ nói chung chung, đã chịu khó nói chi tiết hơn một chút, nêu lên được một số tên tuổi bị giết trong trường hợp nào, hoàn cảnh nào, tại đâu, ngày nào vân, vân… thì sẽ có tính thuyết phục hơn. Vụ VM nhờ thực dân Pháp thanh toán các đảng đối lập, lấy cớ các đảng này phá hoại thỏa ước mồng 6 tháng 3 năm 1946, là chuyện có thật. Nhưng các nhà lãnh đạo còn sống sót của các đảng nạn nhân cần viết ra những chi tiết rõ rệt thì sẽ là những tài liệu giá trị để kết tội cs và đích danh Hồ Chí Minh không yêu nước mà chỉ yêu quyền lực… Chính nhà báo nổi tiếng Joseph Buttinger, thường được coi như thiên cộng, coi thường phe quốc gia, cũng đã tường thuật khá chi tiết về việc trên trong cuốn “VN: A Dragon Embattled” của ông. Trưng dẫn nhà báo thiên cộng này cũng là việc hay, nếu lại trưng dẫn thêm được một vài nguồn tin khác nữa tương tự, thì cũng có thể thay thế cho những chứng liệu hay chứng nhân mà ta không tìm được.

Đã từng có nhiều người viết về việc ông Hồ có nhiều (ít nhất nửa tá, tạm kể sơ qua mấy tên: Tăng Tuyết Minh, Nguyễn Thị Xuân, Nguyễn Thị Minh Khai, Đỗ thị Lạc, Đặng Dĩnh Siêu, Marie Bière, Vera Vasilieva, Nguyễn Thị Phương Mai. Riêng bà này đã được hỏi ý nhưng vì điều kiện bà đưa ra không thể chấp nhận, nên không thành.) vợ hờ và tình nhân để hạ uy tín ông. Thực ra đối với dư luận Tây Phương, những chuyện này không quan trọng. Cứ nhìn vào trường hợp tổng thống Mitterand của Pháp, hay các tổng thống Kennedy, Clinton của Mỹ thì rõ. Cho nên điều quan trọng là phải nói chi tiết hơn để nêu lên hai điểm quan trọng đối với nhân dân VN là sự giả dối, cố tình bưng bít để đánh lừa nhân dân, là những người quen với truyền thống Á Đông, và sự độc ác bất nhân của ông Hồ trong cách cư xử với những người tình hay vợ hờ của ông. (Xin mở một dấu ngoặc để kể một câu chuyện khôi hài mà có thật. Chính William J. Duiker người viết về Hồ Chí Minh dài nhất (660 trang khổ lớn) trong tác phẩm tiểu sử Hồ Chí Minh ra cách đây chưa đến một năm đã thuật lại là khi đã gần xuống lỗ ông Hồ hãy còn khẩn khoản yêu cầu một lãnh tụ cộng sản tên “Tao Zhu” cung cấp cho mình một người bạn gái thật trẻ người Quảng Đông. Tao Zhu đã phải trình lại Chu An Lai, và Chu Ân Lai bảo cần bàn lại với bộ chính trị đảng csVN… Rồi chưa kịp giải quyết ra sao thì ông Hồ đã chết…)

Một điểm quan trọng về tiểu sử của ông Hồ cần nhấn mạnh là nên bình tĩnh nói sự thực và công bình. Có một số nhà báo và nhà văn phe quốc gia khi nói về ông Hồ thường không tiếc lời mạt sát nguyền rủa. Là vì họ quá phẫn nộ, mất bình tĩnh. Vì vậy người đọc bình tĩnh thường không tin, cho là bịa đặt, vu khống. Muốn khách quan và công bình thì phải nhìn nhận ông Hồ là người có chí, có tài về chính trị, nhờ được đào tạo rất kỹ về tổ chức cách mạng và phương pháp đấu tranh chính trị của cộng sản quốc tế, là tổ chức cho đến lúc ấy chưa có nước nào trên thế giới tự do có thể so sánh được. Nhưng bên cạnh cái tài đó là sự tàn ác, bất nhân, và gian xảo (do ảnh hưởng lý luận và thực hành của chủ nghĩa cộng sản, duy vật, vô thần) đưa ông ta và đảng cộng sản tới những tội ác không thể tha thứ là lạnh lùng, vô cảm trước những cái chết của hàng triệu dân, kể cả những lãnh tụ các đảng phái quốc gia tên tuổi, chỉ vì mục tiêu cuối cùng là chiếm được chính quyền trong tay, hầu thực thi những chính sách hoàn toàn theo mẫu mực của cộng sản quốc tế, và nhằm phục vụ quyền lợi của Liên Xô và Trung Cộng.

Đối với cán bộ cộng sản, đừng chê họ ngu, dốt, răng đen mã tấu, mà phải nhìn họ với con mắt độ lượng, thương cảm. Người quốc gia dầu sao cũng đã thua trận, dù có tài trí, có hy sinh chiến đấu anh dũng… Cho nên đừng cười chê nhạo báng những cán bộ đi dép râu, đội nón cối, ngồi thì cho cả hai bàn chân lên ghế, có kẻ còn vo gạo, rửa rau trong bồn cầu xí vì thấy nước trong v.v… Họ thế đấy, nhưng họ đã thắng. Vì họ đơn sơ chất phác, cộng sản bảo gì cũng nghe. Và cộng sản thắng vì có một số đông người “ngu” để sai khiến như cái máy… Cái mà ta cần chứng minh là Hồ Chí Minh giả dối, bất nhân, tàn ác. Chứ không phải chứng minh ông ta ngu dốt. Đối với cán bộ của ông ta cũng vậy. Và điều quan trọng hơn cả là chứng minh ông Hồ và đảng cs VN đưa hàng triệu đồng bào vào chỗ chết không phải để đem lại tự do hạnh phúc cho nhân dân, mà chỉ vì chủ nghĩa Mác Lê không tưởng. Và chứng minh rằng cái gọi là c
uộc “cách mạng” mà các nhà báo thiên cộng hay các sử gia thiếu sâu sắc gán cho ông Hồ và đồng đảng, nó hoàn toàn khác cuộc “cách mạng” mà người không cộng sản quan niệm. Nó không phải là cách mạng dân tộc, cũng không phải là cách mạng xã hội thông thường, mà là cách mạng bạo lực theo chủ trương đấu tranh giai cấp, có thể gọi nó là “cách mạng vô sản”. Nhưng trớ trêu là trong cuộc cách mạng vô sản đó, chỉ có người vô sản nai lưng ra chiến đấu, xả thân cho một số ít lãnh tụ (đa số thuộc thành phần tư sản, hay tiểu tư sản) hưởng thụ, chứ sau khi “cách mạng vô sản” thành công, số phận người vô sản lại hẩm hiu nhất.

Cái khó của chúng ta là phải tìm ra những tài liệu mới, bằng chứng mới có tính thuyết phục cao, để cải chính những sai lầm, thiên vị của nhiều, rất nhiều tác giả lớn ngay trong phe thế giới tự do đã viết về Hồ Chí Minh và đảng cộng sản Việt Nam, về cuộc chiến tranh Việt Nam. Những tác giả này đã bị lầm vì nhiều lý do, trong đó có mấy điểm sau đây:

1. Chế độ cộng sản Việt Nam là một chế độ đóng kín, mọi sự đều bị bưng bít một cách khéo léo, khó có gì có thể lọt ra ngoài mà không bị kiểm soát và bóp méo.

2. Tâm lý cán bộ cộng sản VN không giống những cán bộ cộng sản ở các nước Tây Phương, nhất là Pháp. Nó thường thâm hiểm hơn, khó lường.

3. Cũng giống như tất cả các nước cộng sản khác trên thế giới, các cán bộ lãnh đạo cộng đảng VN đều đã được huấn luyện nhuần nhuyễn về tuyên truyền tại Liên Xô. Lại được toàn khối cộng yểm trợ hết mình, vô điều kiện, (vì thắng lợi của cộng sản VN cũng là thắng lợi của cộng sản thế giới, và ngược lại). Với phương pháp tuyên truyền này kèm theo những kế hoạch quy mô có tầm vóc quốc tế cộng sản có thể nói trắng thành đen, đen thành trắng, mà đối phương rất khó phản bác.

4. Ngay từ đầu phe quốc gia đã thua kém phe cộng sản ở điểm tuyên truyền này, cho nên không nói cho thế giới bên ngoài thấy được những sự thực cần nói, vì thường bị khối lượng tuyền truyền vượt trội của cộng sản thắng thế lấn át đi. Cho nên sau khi cộng đảng VN, được hệ thống tuyên truyền vĩ đại của toàn khối cộng sản hỗ trợ đã để vào trong đầu nhân dân thế giới những ấn tượng sai lầm về con người Hồ Chí Minh, về cuộc chiến VN, thì chúng ta rất khó xóa nhòa những ấn tượng đã in sâu vào tâm trí nhân dân thế giới.

Tuy công việc là khó, nhưng không phải không thể làm, miễn sao nhận ra khuyết điểm trong dĩ vãng để sửa chữa và bù đắp lại trong tương lai.

Trước khi chấm dứt chúng tôi xin nêu ra đây vài câu của các từ điển lớn và những nhà văn, nhà báo tên tuổi trên thế giới đã ca ngợi Hồ Chí Minh, để chứng tỏ rằng cần bác bỏ những nhận định đó thì mới đánh đổ được huyền thoại Hồ Chí Minh, và chứng tỏ rằng đây là một việc phức tạp, khó khăn chứ không đơn giản, cần có một nỗ lực tập thể. Đồng thời cũng để bác bỏ luận điểm của một số người chủ quan cho rằng thần tượng Hồ Chí Minh đã sụp đổ rồi, cần gì phải nêu vấn đề đánh đổ thần tượng Hồ Chí Minh.

Trước hết là 2 cuốn tự điển Bách Khoa lớn nhất thế giới.

1. Tự Điển của Mỹ (tome 14, trang 253-254) ghi: “Hồ Chí Minh được kính trọng rộng rãi như một nhà ái quốc và một nhà giải phóng dân tộc.”

2. Cuốn của Anh (tome 5, trang 953-955) viết về Hồ Chí Minh kỹ và dài gấp 3 lần cuốn của Mỹ, luôn cho rằng Hồ Chí Minh lãnh đạo phong trào “quốc gia”, chủ nghĩa yêu nước. Chỉ nêu ra một câu đáng chú ý:

Như một nhà lãnh đạo phong trào quốc gia VN trong 3 thập kỷ, Hồ Chí Minh là một trong những người khởi xướng hàng đầu của phong trào chống thực dân của Á Châu sau thế chiến II và là một trong những lãnh tụ cộng sản có ảnh hưởng nhất của thế kỷ 20.

Nhìn vào những tác phẩm được các tự điển lớn này tham khảo để viết ra những lời trên thì thấy, ngoài các cây viết tên tuổi của Pháp và Mỹ như Jean Lacouture, David Halberstam, Sainteny, Charles Fenn, chỉ thấy có tài liệu của đảng cộng sản Việt Nam là 2 cuốn; “Our President Hồ Chí Minh” (1970) và “Uncle Ho” (1980), chứ không thấy có cuốn nào của các đảng Việt Cách, Việt Quốc, Đại Việt, Cần Lao, hay Dân Chủ !

May mà còn có một cuốn của một nhân vật cựu cộng sản ly khai là tiến sĩ Nguyễn Khắc Huyên. Nhưng tác phẩm của ông này, vì là luận án tiến sĩ tại Mỹ, nên lại cũng phải tham khảo những tác giả tương tự như 2 cuốn tự điển nói trên. Tuy tác giả có một số kinh nghiệm sống của bản thân, nhưng vì vẫn chưa đặt được cuộc chiến Việt Nam vào trong bối cảnh cuộc đấu tranh giai cấp của cộng sản thế giới, thành ra vẫn chưa vẽ nên được chân dung đích thực của Hồ Chí Minh.

3. Cuốn thứ 3 mà chúng tôi trưng dẫn ở đây là Tự Điển Chiến Tranh Việt Nam do James S. Olson chủ biên, trang 204 có ghi: “Hồ Chí Minh was the “Father of his country”.” (Ý nói Ông Hồ là Quốc Phụ Việt Nam, đúng như cán bộ cộng sản thường gọi ông ta là cha già dân tộc)

Và sau đây là mấy tác giả khác:

4. Joseph Buttinger, trong “Vietnam a Dragon Embattled” (volume I, trang 379) viết: “Hồ Chí Minh was the leader of a national revolution, and as such a national hero… (Hồ Chí Minh là lãnh tụ Cách Mạng Quốc gia, và do đó là anh hùng quốc gia” Trong cuốn “VN, The Unforgettable Traged
y
” (trang 19) Buttinger lại bảo Hồ Chí Minh là một thiên tài về chính trị (the political genius), và (trang 26) “a better “Titoist” than Tito himself” (ý nói: người cs dân tộc kiểu Tito hơn cả chính Tito).

5. Lucien Bodard trong cuốn “Quicksank war- Prelude to Vietnam” (trang 15): “Hồ Chí Minh là Thần Thánh, là vị thần của các thành viên kháng chiến, là nhà ái quốc, là ANH HÙNG (viết hoa).

6. Jean Lacouture trong cuốn “Hồ Chí Minh A Political Biography” là cuốn nói về Hồ Chí Minh hay nhất, theo thiển kiến, và cũng được nhiều người trưng dẫn nhất, và cũng là cuốn đầy đủ nhất bằng ngoại ngữ, cho đến khi cuốn “Hồ Chí Minh” (660 trang) của Duiker mới ra, đã ca tụng Hồ Chí Minh là thiên tài về sách lược, có khả năng vô song về nói trước quần chúng bằng lời lẽ thẳng thắn, bình dị đơn sơ.” (tr. 281)

7. David Halberstam đã viết trong cuốn sách mỏng, tựa đề vẻn vẹn một chữ “HỒ” như sau: “Hồ Chí Minh là khuôn mặt phi thường của vùng này – một phần là Gandhi, một phần là Lê-nin, tất cả là Việt Nam” (tr.12) Và: “Tito, Stalin, Khrutshchev, Mao Trạch Đông, tất cả đều có tật sùng bái cá nhân. Nhưng Hồ Chí Minh thì không…” (tr. 16)

8. Đại tướng 3 sao Mỹ Phillip B. Davidson, trong cuốn “Vietnam At War” (1988), trang 795, đã hết lời ca tụng cộng sản VN. Ông khẳng định rằng họ thắng Mỹ là nhờ họ có một đại chiến lược cao siêu (They had a superior grand Strategy). Sau đó ông nói về đại chiến lược đó như sau: “Từ đầu tới cuối cuộc chiến cộng quân đã có một mục tiêu quốc gia duy nhất là nền độc lập và thống nhất của VN”.

9. William J. Duiker, cũng như Davidson, đã từng làm việc ở Saigon trước 75, đã viết trong cuốn “Ho Chi Minh”, một tác phẩm vĩ đại nhất về Hồ Chí Minh từ trước tới nay, gần 700 trang, đã viết những hàng cuối cùng trong phần kết luận về Hồ Chí Minh như sau: “… Ông Hồ đã chiếm được địa vị cao quý trong đền thờ vĩ nhân dành cho những anh hùng cách mạng đã tranh đấu mãnh liệt cho giới cùng khổ trên thế giới được có tiếng nói của mình.”

Xin lưu ý độc giả là 2 người Mỹ vừa nêu đều đã từng là những giới chức cao cấp của đồng minh Hoa Kỳ phục vụ tại Việt Nam trước 75. Cuốn của Davidson viết trước khi Đông Âu sụp đổ một năm. Còn cuốn của Duiker mới vừa ra cách đây chưa đầy một năm. Nói vậy đủ hiểu luận điệu của những người khẳng định rằng, sau vụ Đông Âu, dư luận thế giới đối với cộng đảng VN đã thay đổi hoàn toàn, không đứng vững. Dư luận đó có sẽ thay đổi thật hay không còn tùy ở thái độ đúng đắn, khiêm tốn, thận trọng của phe quốc gia, biết nhìn ra nguyên do thất trận để bù đắp, để tập trung khả năng trí tuệ vào việc bác bỏ những nhận định nêu trên, chứ không phải tự nhiên mà thành.

Chúng tôi có thể ghi thêm hàng chục câu tương tự của những tác giả mà chúng tôi được đọc, trong số hàng trăm người khác. Nhưng bấy nhiêu cũng tạm đủ để chúng ta suy ngẫm mà thận trọng trong khi phê bình chỉ trích để lật đổ một thần tượng đã do truyền thông thế giới góp phần tạo dựng nên theo sự xếp đặt xảo quyệt của cả một bộ máy tuyên truyền vĩ đại của toàn khối cộng sản thế giới. Ngay từ thập niên 50, bộ máy tuyên truyền này đã chi hàng chục tỷ Mỹ Kim hàng năm, trong khi thế giới tự do rất hà tiện đối với công tác tuyên truyền, mà chỉ gia tăng ngân sách quốc phòng.

Chúng tôi hy vọng rằng những ý kiến còn thiếu sót trình bày ở trên, nếu được các bậc thức giả để mắt tới mà bổ khuyết cho, sẽ có thể làm cơ sở để tạo nên một tác phẩm đủ tầm cỡ hầu phản bác những nhận xét của những sử gia thiên cộng về con người “yêu nước, anh hùng dân tộc” Hồ Chí Minh và về “công lao của cộng đảng” trong việc dành lại độc lập và thống nhất tổ quốc Việt Nam.n

March 29, 2009 Posted by | Uncategorized | 1 Comment

HỊCH KỂ TỘI AI ĐÂY

HĐ đọc được một bài dài lắm ở đây, thấy trong lòng nổi lên nhiều cảm xúc. Cắt vài đoạn tiêu biểu và viết thêm vài chữ để làm nhẹ câu văn. Giới thiệu với các bạn, nhất là các bạn trẻ. Cái cách đặt vấn đề của tác giả mới là cái làm mình phục, cũng như câu chữ được tác giả chọn lọc rất kỹ lưỡng, không hổ tiếng là nhà văn. Trong toàn bài, tác giả bảo là thư gửi cho vài người, nhưng thực ra đây là một bài hịch kể tội với những dấu chấm than đặt chính xác vào những câu cố tình viết nhẹ đi để có vẻ là một lá thư. Nhưng xin nói lại đây là một bài hịch. Ngày xưa, mỗi lần có một bài hịch là mỗi lần dân ta khởi nghĩa thành công. Hy vọng sau bài hịch này sẽ có đổi mới ở nước Việt.
Xin trân trọng giới thiệu.
(Chỗ in đậm hay tô đỏ là do HĐ. Riêng những chữ màu xanh lam là cảm khái của HĐ. Hy vọng không làm hỏng cảm xúc của bạn đọc. Muốn thấy tính cách “hịch hạch tội” của bài viết xin tham khảo ở đây.)

…..

Lịch sử ông cha để lại dạy chúng ta bài học là để dân tộc tồn tại, để đất nước vẹn tòan, phải đưa giá trị dân tộc lên trên hết, phải đòan kết thương yêu dân tộc,

Nhiễu điều phủ lấy giá gương

Người trong một nước phải thương nhau cùng! (Chấm than ở đây là để nói gằn, rằng nhớ lấy, tổ tiên đã dạy thế.)

Nhưng hôm nay chúng ta đã làm ngược lại với điều cha ông đã dạy. Lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm lí tưởng soi đường, lấy học thuyết đấu tranh giai cấp làm phương châm hành động,

Quan san muôn dặm một nhà

Bốn phương vô sản đều là anh em! (Nhưng chấm than ở đây lại là “Thế mà chúng mày rước cái này về thờ hơn mả tổ.)

Chúng ta đã đưa giá trị giai cấp lên trên giá trị dân tộc! Người cùng dòng giống Lạc Hồng, rất mực yêu nước thương nòi, nhờ làm ăn lương thiện và hiệu quả mà có chút của ăn của để liền bị qui là giai cấp bóc lột, giai cấp đối kháng, trở thành kẻ thù của nhà nước công nông, bị xử lí tàn bạo! Nhưng năm 1958, khi nhà nước công nông Trung Hoa tuyên bố vùng biển của họ bao trùm cả quần đảo Hòang Sa, quần đảo Trường Sa của tổ tiên ta, với tinh thần quốc tế vô sản, Thủ tướng Phạm Văn Đồng của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa liền có công hàm ủng hộ tuyên bố tham lam, bành trướng của nhà nước công nông phương Bắc! (Hai câu đối xứng để mắng lũ ngợm làm ngược lại lời dạy của cha ông “Khôn ngoan đá đáp người ngoài, Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau.” Đá mạnh đi chứ nhỉ, đến cả triệu người bị chết và tàn mạt vì Cải Cách Ruộng Đất mà.)

Đưa giá trị giai cấp lên trên giá trị dân tộc làm cho ý thức dân tộc phai nhạt đi, làm dân tộc yếu đi! Dân tộc yếu đi thì tham vọng bành trướng (của phương bắc) sẽ lấn tới với đủ mưu chước, thủ đọan, phương thức lấn đất, lấn cõi. Miền Bắc nước ta vừa được giải phóng khỏi quân Pháp xâm lược, nước lớn phương Bắc liền xốt xắng ra tay hào hiệp nhận giúp Việt Nam khôi phục đường sắt Đồng Đăng – Hà Nội. Khi đó ở miền Bắc nước ta chỉ có nhà máy điện, nhà máy nước còn có thể cố ì ạch họat động, còn các nhà máy khác đều tanh bành, chưa thể khôi phục. Cả miền Bắc thất nghiệp! Lại thêm lực lượng lao động hùng hậu là cán bộ, bộ đội miền Nam tập kết! Lực lượng lao động dư thừa nhưng với lòng tin tưởng và trân trọng tình cảm quốc tế vô sản, chúng ta đã mở rộng cửa ải phía Bắc đón hàng trăm công nhân đường sắt Trung Hoa vào Lạng Sơn làm công việc cơ bắp đơn giản là san nền đường, rải đá, đặt đường ray và những công nhân đường sắt Trung Hoa đã đưa chỗ nối ray của tuyến đường sắt liên vận Việt – Trung vào sâu lãnh thổ nước ta hơn ba trăm mét! (Nó đểu thế đấy mà chúng mày cứ anh anh em em với nó. Thực ra ai cũng biết chúng mày quị lụy nó để làm gì) Để rồi sau này họ lí sự là luật pháp không cho phép đường sắt nước này lại đặt trên lãnh thổ nước khác, vì thế chỗ nối ray chính là chỗ phân chia biên giới quốc gia! (Trúng quả lừa mà chưa sáng mắt. Hay là cố tình về hùa với chúng nó để lừa dân. Thưa đồng bào, chúng nó lừa chúng ta thế đấy.)

Qua những vụ việc đất đai ở biên cương phía bắc, có thể dễ dàng nhận ra bài bản cướp đất của phương Bắc là: Lặng lẽ chiếm đất ở từng điểm nhỏ lẻ, rải rác, coi như đó chỉ là những vụ việc cục bộ, địa phương, nhà nước trung ương không hay biết! Nhà nước trung ương cứ cao giọng nói hữu hảo, cứ ban phát lời vàng hữu nghị nhưng cục bộ cứ lấn đất, chiếm đất, lặng lẽ mà chiếm, không gây ồn ào thành sự kiện quốc gia là được! Cả hệ
thống truyền thông khổng lồ của ta cũng làm ngơ đồng lõa! Mấy con thú của công viên giải trí Đại Nam ở tỉnh lẻ Bình Dương xổng chuồng thì nhiều tờ báo ở thành phố Hồ Chí Minh có bài, ảnh đưa tin nhiều ngày, dõi theo từng dấu chân bầy thú vượt ngục! Nhưng ngày 29.2.1976 hàng ngàn quân phương Bắc mặc đồ dân sự tràn qua biên giới vào đất ta giăng thành hàng rào ở thác Bản Giốc, Cao Bằng, che chắn cho tốp thợ đổ bê tông cột mốc, chia cắt thác Bản Giốc làm đôi, chiếm nửa thác của ta thì không có tờ báo nào đưa tin! Không có tờ báo nào đưa tin ngày 4.3.1992, đòan người từ phương Bắc mang súng ống gậy gộc ầm ầm kéo đến bản Sẻo Lũng, mỏm cực bắc của nước ta thuộc huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang! Họ đốt phá nhà cửa dân ta rồi tuyên bố đất Sẻo Lũng là lãnh thổ Trung Hoa! Các báo không đưa tin vì không biết sự việc hay không được phép đưa tin? (Ở đây đúng ra cũng nên có một chấm than.) Phương Bắc gây sự lấn đất là việc thường ngày ở biên giới, tai mắt của các báo không thể không biết! Báo chí ở trung ương đã im lặng, báo chí của các tỉnh biên giới cũng lặng thinh thì lạ quá! Kẻ cướp xông vào tận nhà cướp bóc mà không bị chủ nhà hô hóan tố cáo thì kẻ cướp cứ làm tới, chiếm hết điểm cao này đến sườn núi khác! (Đến đây thì bác nhà văn ta chửi luôn tập hợp những bác nhà báo, rằng bọn nhà báo chỉ là nô tài, gia nô của bọn cầm quyền. Quyền được thông tin, quyền được tìm hiểu của dân Việt thuộc vào phạm trù “duy tâm” mất rồi.) Nhiều thế đất có giá trị chiến lược về quân sự và kinh tế chiếm được rồi, lúc đó họ mới hối thúc ta đàm phán kí kết hiệp ước biên giới để hợp pháp hóa những mảnh đất hiểm yếu đã chiếm được! Năm 1885, được người Pháp cắt nhượng cho một rẻo đất Việt Nam ở biên giới phía Bắc thì năm 1887 có ngay hiệp ước biên giới Việt – Trung kí giữa nhà Thanh và chính quyền Pháp để phần đất Việt Nam bị cắt nhượng đó chính thức trở thành đất đai Trung Hoa! (Rõ là quan thầy của các anh chỉ là một lũ cướp đất. Các anh có mắt cũng như mù. Hay là…)

Ý thức dân tộc “Nam quốc sơn hà Nam đế cư” tạo ra truyền thuyết Hùng Vương để mà tự hào, tạo ra truyền thuyết Mẹ Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng nở ra trăm con để nhắc nhở đoàn kết thương yêu dân tộc. Ý thức dân tộc bao giờ cũng đưa Tổ quốc lên trên hết. “Tổ quốc trên hết!”, “Hi sinh vì Tổ quốc!”, nhờ thế Tổ quốc Việt Nam mới vững vàng tòan vẹn đến hôm nay. Nhưng ngày nay nhà nước ta lại đưa đảng lên trên hết! (Lại những dấu chấm than nhức nhối cho những ai còn bám váy đảng.)

Tổ quốc cho ta khái niệm, cho ta ý thức về đất nước, về nhân dân, về dân tộc. Đảng cho ta khái niệm về một giai cấp, một học thuyết, một lực lượng xã hội. Đạo lí dân tộc và chữ nghĩa thánh hiền đều dạy con dân nước Việt là Trung với Nước, Hiếu với Dân. Đưa Tổ quốc lên trên hết nên ngày mới giành được độc lập sau cách mạng Tháng Tám năm 1945, (Tác giả cố tình không tuyên xưng rằng cuộc sát nhập mảnh đất phía nam vĩ tuyến 17 năm 1975 là một thắng lợi nhân danh Tổ Quốc hay Nhân Dân. Cảm ơn vì tác giả thấy rõ điều này. Vì rõ ràng Tháng Tư năm 1975 chỉ là một cuộc cướp đất cướp dân cướp của. Ôi lũ cướp, nó (Tầu Cộng và Việt Cộng) cướp qua cướp lại của nhau.) ở những nơi công quyền đều có bàn thờ Tổ quốc với hàng chữ trang trọng, thiêng liêng “Tổ quốc trên hết”. Đưa Tổ quốc, đưa đất nước lên trên hết nên phong tục từ ngàn đời của người Việt là mùa xuân về, nơi nơi mở hội mừng đất nước thái bình, thịnh vượng, mùa xuân về, người người đi lễ Trời, Phật cầu mong mưa thuận gió hòa, cuộc sống ấm no hạnh phúc. Ngày nay nhà nước dạy con dân nước Việt là Trung với Đảng, Hiếu với Dân, mùa xuân về thì Mừng đảng, Mừng xuân! Dù đảng có công lao lớn với dân tộc trong giai đọan lịch sử vừa qua nhưng không thể đưa đảng lên trên Tổ quốc, trên dân tộc, không thể lấy khái niệm đảng thay khái niệm Tổ quốc, thay khái niệm dân tộc! Trung với Đảng, Hiếu với Dân thay cho Trung với Nước, Hiếu với Dân, Mừng Đảng, mừng Xuân thay cho Mừng Xuân, mừng Đất nước là sự thiếu khiêm tốn, thiếu lễ nghĩa, “Ghế trên ngồi tót sỗ sàng” (mượn Nguyễn Du câu này là để chửi chúng bây là lũ mất dạy, xấc xược), là đặt đảng không đúng vị trí của đảng, là lấn át, hạ thấp Tổ quốc, hạ thấp đất nước, hạ thấp dân tộc! Trong khái niệm, trong ngôn từ chỉ có đảng! Khái niệm Tổ quốc bị gạt bỏ, mất hút thì ý thức dân tộc cũng phai nhạt, chìm khuất! (Đọc vậy rồi có ai còn dám trơ tráo vô sỉ đi bênh đỡ cho đảng Cộng Sản Việt Nam nữa nhỉ.)

Lạ quá, qui họach khai thác bô xít ở Tây Nguyên mới được Chính phủ phê duyệt, luận chứng kinh tế kĩ thuật đang sọan thảo, các nhà khoa học còn đang tranh luận nên hay không nên khai thác bô xít ở Tây Nguyên, thế mà công dân Trung Hoa, người cầm bản đồ, người mang cưa máy, người cuốc, người xẻng đã xục xạo ở Tây Nguyên! (Như đi vào chỗ không người. Khinh Việt Nam quá đáng.) Dư luận người dân Việt Nam đang lo ngại, đang xôn xao bàn tán về tính hiệu quả, về thảm họa môi trường khi khai thác bô xít Tây Nguyên và càng lo ngại hơn khi hàng ngàn trai tráng Trung Hoa sẽ có mặt đông đảo, trùng trùng đội ngũ ở Tây Nguyên, trung tâm bán đảo Đông Dương, khi đó ông Thủ tướng mới tuyên bố rằng khai thác bô xít Tây Nguyên là chủ trương lớn của đảng và nhà nước!
Chủ trương lớn của đảng và nhà nước mà Quốc hội của dân chưa được bàn định thì người Trung Hoa đã xắn tay áo thực hiện chủ trương lớn của đảng và nhà nước ta rồi! (Vâng, chủ trương của các anh, còn dân thì các anh coi bằng…!) Điều này làm cho người dân phải đặt câu hỏi: Chủ trương lớn khai thác bô xít Tây Nguyên có thực sự vì đất nước Việt Nam, có thực sự vì nhân dân Việt Nam. (Lẽ ra lại phải có chấm hỏi và chấm than ở đây. Mà hỏi tức là trả lời rồi.) Tôi lại nhớ đến câu văn trong tuyên bố chung Việt – Trung mà Tổng bí thư Nông Đức Mạnh đã kí với Tổng bí thư Hồ Cẩm Đào tháng 5 năm 2008 ở Bắc Kinh: Hai nước sẽ thiết lập đường dây nóng giữa các nhà lãnh đạo… Việc tranh chấp lãnh thổ, lãnh hải giữa hai nước hai bên phải tôn trọng những kí kết của lãnh đạo đã thỏa thuận trong quá khứ! (Câu này thì mình phải bold lên thôi. Quá khứ là công hàm Phạm Văn Đồng 1958 về lãnh hải, là cột mốc trồng từ năm 1979, 1982 và hiệp định biên giới Việt Hoa 1999 chứ gì! Ai đi du lịch Nam Quan thì sang Tầu đăng kí nhá.)

Cả lục địa đen châu Phi đã trở thành bãi khai mỏ của Trung Hoa, cung cấp nguyên liệu thiết yếu cho cả nền công nghiệp nhiều tham vọng của Trung Hoa. Trung Hoa ồ ạt đưa người đến châu Phi khai mỏ dầu ở Sudan, Nigéria, Angola, khai mỏ đồng ở Zambia, Congo, khai mỏ sắt ở Libéria và khai mỏ bô xít ở Guinea. Có một điều rất đáng chú ý là, những nước châu Phi cho Trung Hoa đến rút ruột tài nguyên phần lớn là những nước độc tài, tham nhũng và các tổ chức quốc tế đã lên án mạnh mẽ Trung Hoa chỉ cốt khai thác thật nhanh, thật nhiều tài nguyên của các nước mà không hề quan tâm đến môi trường, sinh thái nơi khai thác, sẽ để lại hậu quả bi thảm cho môi trường sống ở những nơi đó! (Đoạn này mình đưa vào là vì có cái câu mình bold lên đó.)

Ôi! đọc xong mà nẫu ruột. Nẫu ruột là vì mình biết rằng có nói thế này hay nói hơn thế này nữa – mà chắc chả ai nói hơn được thế này – thì con cháu ta vẫn cứ “Hồ Chí Minh muôn năm! Đảng Cộng Sản Việt Nam quang vinh muôn năm!”!!!!!) Chỉ tại cha ông ngu đi theo chúng, giờ có la làng, có tự thiêu, có gì gì đi nữa thì cũng đã muộn. Phải đợi đến khi mất nước rồi thì hậu duệ ta, nhờ phúc đức tổ tiên thời Lý Trần Lê mà sẽ lại khôi phục được đất nước. Mà nhỡ không khôi phục được đất nước thì đồng hóa thành Tầu luôn cho nó… oai (nam tử Hán đại trượng phu mà)!.

March 24, 2009 Posted by | Uncategorized | Leave a comment

Thao Thức Với Quê Hương

Đọc để hiểu, đọc để khắc sâu vào tâm khảm những khốn khổ của dân tộc, những độc ác của một loại người. Đọc để đừng tiếp tục mắc lừa, để tự răn mình đừng chà đạp lên tự do và lẽ sống của bất kỳ ai. Và đọc để tái lập nền dân chủ trong đạo đức vốn đã có tự ngàn xưa của dân tộc ta.

Mời các bạn tiếp tục đọc Mai Nguyên, chương “Thao Thức Với Quê Hương” trong tác phẩm mới xuất bản “Đã Mang Lấy Nghiệp” của bà (từ trang 140).

…..

Chị Ba kể cho em nghe một số việc bên nhà, báo chí cộng sản luôn nêu cao vấn đề hòa hợp, hòa giải giữa cộng sản và Cộng Hòa. Ông Sư Nhất Hạnh về Saigon với tăng đoàn cả mấy trăm người linh đình, dù lọng, quạt, kiểu.. thế thiên hành đạo, để lập đàn giải oan. Nhưng trăm người trăm ý. Không ai có thể hiểu rõ mục đích của nội vụ trừ.. ông sư và ông nhà nước(!) Dĩ nhiên dân chúng VN nghe cúng giải oan thì cũng chắc vui mừng về nhiều mặt, vì xưa nay người miền Nam theo tập quán cúng kiến người thân đã mất thì bị nhà nước CS trù dập, cho là mê tín dị đoan, (về sau này hễ đâu đâu có “đám cúng” thì công an cán bộ được mời ăn nhậu thỏa thuê ở.. chiếu trên, nên không những không bị đại diện nhà nước bắt tội, mà mọi người đều “hồ hởi phấn khởi!”) Và bây giờ chính CS bày những trò có vẻ.. hướng về tâm linh,(?) chị hỏi em.. tại sao? Và tin tức thế giới có gì mới lạ, em phải đừng quên viết cho chị. Nhất là về ngày 30/4, vết thương có nhờ thời gian mà lành không? Nỗi hờn vong quốc, từng sưng tấy, nay có kể như “xẹp” rồi không sau đã hơn 30 năm? Chị cũng muốn nghe em kể về cuộc sống của người Việt lưu vong. Chị nghe nói có nhiều đoàn thể, nhiều chính phủ này nọ, sự thật thế nào, và họ đã làm được những gì?

*

Thật là tuyệt vời với những câu hỏi quan trọng này đấy chị. Em nghĩ là em có thể “giả nhời” chị phần nào theo suy nghĩ và sự hiểu biết của riêng em.

*

30/4//75 từ ngày CS chiếm nước, đến 30/4/2007, 32 năm đã qua trong đời Việt Nam!! Thời gian tuy quá lâu mà thoắt đi như chớp bướm, tuy với hàng ngàn thế sự chập chùng.

Chị Ba à, việc Thiền sư Nhất Hạnh được phép về, hay được nhà nước CS mời về, chỉ có hai bên họ biết mục đích. Tất cả người ngoài cuộc đều chỉ suy trên nhiều căn bản của việc đạo, việc đời, mà đoán. Việc lập đàn cúng tế thì thấy rõ, chỉ là một cớ. Vì theo tập quán người Nam, ta đã có Ngày Rằm Tháng Bảy là ngày tưởng niệm, ngày “Xá Tội Vong Nhân.” Không chỉ nhà nhà cúng lễ cầu cho người thân đã chết được thoát siêu, được xá tội, mà tất cả chùa chiền trong cả nước đều long trọng làm đại lễ, chứ đâu cần riêng gì Thiền sư Nhất Hạnh về làm, trong chỉ 3 chùa, chỉ trong một ngày, chỉ trong một năm? Ông kêu gọi hòa giải dân tộc, lấy tình thương xóa bỏ hận thù để cùng xây dựng đất nước! – Nghe thì hay như.. thật, vấn đề là ai phải hòa giải với ai? Ai hận thù ai? Hiện nay đảng cộng sản chỉ muốn “xoa đầu dân VN hải ngoại,” rằng chúng mình hãy yêu thương nhau, hòa giải mí nhau, còn trên 80 triệu người trong nước thì phải luôn sống dưới sự khủng bố của họ.

Thiền sư là một nhà tu thuộc “thành phần thứ 3,” khá nổi tiếng trên nhiều quốc gia trong việc phổ biến việc tu Thiền, có vợ, nhiều tiếng tốt cũng như nhiều tiếng xấu về cuộc đời ông. Cũng như ông Hồ, một chủ tịch nước bị nhiều biếm nhẽ xấu xa nhất trên thế giới, thiên hạ cũng kẹp Thiền sư vào với ông ta nhạo báng với ý tục,

“Lò Tôn” ướp xác Bác Hồ

Bác nằm yên nghỉ trong “Lồ” cháu ngoan

Chay đàn Nhất Hạnh giải oan

Giải từ hòm kiếng giải sang Tôn Lò.

Vài năm trước Thiền sư Nhất Hạnh đã từng về VN thuyết phục “Giáo Hội Phật Giáo VN Thống Nhất” sát nhập vào “Giáo Hội Phật Giáo VN” (Quốc Doanh) dưới sự áp đặt của CSVN, và ông đã bị thất bại. Nay chuyện “cổ tích” ấy được lập lại, không gì mới mẻ.

Mục đích của cộng sản là diệt sạch tôn giáo, nhưng biết là Phật Giáo là một tôn giáo lâu đời, có thực lực không dễ diệt, nên họ chia rẽ từ từ, bày ra “Phật Giáo VN Quốc Doanh” do họ điều hành trước đã. Nếu dẹp được “Phật Giáo VN Thống Nhất,” thì rồi Phật Giáo VN Quốc Doanh cũng sẽ bị dẹp tan như “Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam!” Biết bao nhiêu đất chùa chiền, ngay cả các Tòa Khâm Sứ, Viện Hóa Đạo đã bị tịch thu, để xây dựng các nơi ăn chơi, giải trí, phố buôn bán, hay bán cho bọn tư bản nước ngoài với tiền triệu, tiền tỉ đô để xây dựng những khu thương mãi. Và tiền thì CS bỏ túi.

Qua bài và hình ảnh trong báo chí, thấy tăng đoàn của ông Nhất Hạnh về rất rầm rộ, linh đình quạt lọng, chiêng trống tưng bừng, dùng bốn chữ “Lập Đàn Giải Oan” để dân chúng dễ dàng chấp nhận, nô nức nghe theo. Dù vậy, thử hỏi các giới đạo khác, thí dụ Phật Giáo VN Thống Nhất, Cao Đài, Hòa Hảo, Thiên Chúa giáo, Tin Lành giáo, v.v.. có được phép “hành đạo lập đàn giải oan” như Thiền sư Nhất Hạnh làm hay không? Nếu có, và nhất là nếu được nhà nước cộng sản đứng ra hô h
ào cùng tất cả các đạo lập trai đàn, sám hối những lỗi lầm của người sống, giải oan cho người chết, thì chắc chắn 100% dân chúng VN đều sẽ vô cùng háo hức, tin tưởng là chính quyền CS có tâm thành, trên phương diện tâm linh, có thay đổi.

Là người Việt Nam, ai mà không ham có đổi thay vì ai cũng nhận rõ rằng trong hơn nửa thế kỷ sống dưới sự toàn trị ngu ác, dã man của đảng cộng sản, qua bao năm dài chiến tranh trong toàn lãnh thổ VN, có gia đình nào không có người nằm xuống, có gia đình nào không có người chết trong các vụ án oan, đã khiến hàng chục ngàn người chết vì bị đấu tố dã man, máu chảy thành sông, xương phơi trắng núi trong vụ Cải Cách Ruộng Đất ở Bắc Việt theo lệnh của quan Tàu, quan Nga, – hàng trăm người bị giết, bị tù đày trong vụ án Nhân Văn Giai Phẩm, – hàng 6 ngàn người dân vô tội bị giết dã man bị cột chùm xiềng xích, đập đầu bằng cuốc xuổng, chôn sống tập thể trong Tết Mậu Thân 1968 trong chỉ vài chục ngày CS chiếm Huế.

(Không những không có lòng trắc ẩn với sự ta thán oán hận của toàn dân, của thế giới, CSVN còn ăn mừng các biến cố đẫm máu chúng cho là thắng lợi này!!)

Từ chiếm nước 1975, CS đã quá tàn ác trong vụ bỏ đói, đánh giết dã man không biết bao tù cải tạo, cướp đoạt không biết bao tài sản của đồng bào. Gián tiếp xua đuổi hàng triệu con người liều chết trốn lìa bỏ xứ bằng đường bộ, đường rừng, đường biển trên những chiếc thuyền con mong manh, hàng nửa triệu người vùi thây trong lòng biển cả.

Và ngay như trong hiện tại, nhà nước CSVN đang đàn áp, bắt bớ, đánh đập, bỏ tù biết bao người dân oan đang biểu tình khiếu kiện vì họ bị cướp nhà, cướp đất, cướp tài sản, cướp tự do, từ khi CS toàn chiếm quê hương. Dân nghèo thì càng ngày càng nghèo thê thãm, còn thành phần ông “nhà nước” thì giàu nức đố đổ vách, trên ăn hối lộ theo trên, dưới ăn theo dưới, gần như không một người nào không ăn. Một xứ sở mà qua kết quả khảo sát của công ty kiểm toán “Gian Lận Toàn Thế Giới Earns & Young” năm 2008 đã cho kết quả là “nước VNCS tham nhũng, đòi hối lộ 96% trên tất cả các doanh nghiệp!” Tham nhũng số 1 trên toàn thế giới! Từ cấp cao trên chính quyền trung ương, từ cấp thấp nhất ở địa phương.. nên không ai có thể chống tham nhũng, vì chống tham nhũng là chống Đảng, chống Nhà Nước!

Và khi Nhà Nước chỉ mắc lo hốt tiền, thì còn ai để xét xử những khiếu kiện? Dân không ai được quyền có tiếng nói, chỉ có nhà nước là có toàn quyền bóp miệng, đánh đập phủ đầu, ám sát bằng rình rập đụng xe, bắt bớ giam cầm, với sự bạo ngược độc tôn, độc tài, tự biên tự diễn, tự xử theo luật rừng những người yêu nước chân chính chỉ muốn góp tiếng nói để xây dựng đất nước.

Đối với dân trong xứ nghèo hèn, CS là hung thần, là ác quỷ, mà đối với ngoại bang thì cúi mọp xin ân huệ, đối với Trung cộng thì tỏ sự khiếp nhược, hèn hạ, chỉ im thít khi chúng hà hiếp, bắn giết ngư dân tự do ở Trường Sa, lấn biên giới biển và biên giới đất.

March 20, 2009 Posted by | Uncategorized | Leave a comment